Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu và kể từ năm 2017, thương mại luôn ở mức trên 200% GDP. Việt Nam có quan hệ thương mại với hơn 150 quốc gia, nhưng phần lớn thương mại tập trung giữa Trung Quốc, Hàn Quốc và Mỹ, mà theo giáo sư Trần Văn Thọ (Đại học Waseda), tạo thành một Tam giác thương mại mới ở Thái Bình Dương.
Năm 2020, Mỹ và Trung Quốc chiếm 45% xuất khẩu của Việt Nam. Tỷ trọng nhập khẩu của Trung Quốc và Hàn Quốc tăng lên 50%, với một phần ba tổng nhập khẩu đến từ Trung Quốc.
Đáng chú ý là loại sản phẩm được giao dịch và sự mất cân bằng thương mại giữa các đối tác. Việc phụ thuộc vào Mỹ như một điểm đến xuất khẩu, chiếm khoảng 40% xuất khẩu của Việt Nam vào năm 2020, đã chứng kiến thặng dư thương mại của Việt Nam với Washington tăng nhanh trong những năm gần đây.
Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu các mặt hàng trung gian như sản phẩm sơ chế và tư liệu sản xuất từ Trung Quốc và Hàn Quốc, dẫn đến thâm hụt thương mại lớn với các nước này - với xu hướng nghiêng mạnh về Trung Quốc.
Năm 2020, Trung Quốc chiếm 32% hàng công nghiệp sơ chế, 27% linh kiện và 38% hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam. Tỷ lệ của Hàn Quốc lần lượt là 16%, 36% và 21%.
Mô hình thương mại này giống như một Tam giác thương mại mới ở Thái Bình Dương bao gồm Trung Quốc, Hàn Quốc và Mỹ, với Việt Nam là tâm điểm. Tam giác của những năm 1980 đặc trưng cho các nền kinh tế châu Á đang phát triển công nghiệp như Hàn Quốc và Đài Loan, đã nhập khẩu hàng hóa trung gian và vốn từ Nhật Bản và xuất khẩu hàng tiêu dùng cuối cùng sang Mỹ. Điều này dẫn đến thâm hụt thương mại lớn với nhóm trước và thặng dư với nhóm sau, dẫn đến xung đột thương mại với Mỹ. Các nền kinh tế công nghiệp mới ở châu Á đã giải quyết vấn đề này bằng cách thay thế hàng nhập khẩu từ Nhật Bản để nâng cấp cơ cấu công nghiệp của chính họ.
Tam giác thương mại Thái Bình Dương hiện tại mà Việt Nam đang tham gia có nhiều rủi ro hơn. Một mặt, Mỹ có thể áp đặt các biện pháp bảo hộ đối với các đối tác thương mại mà họ có thâm hụt lớn. Mặt khác, việc phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu từ Trung Quốc có thể gây ra bất ổn khi những thay đổi trong chính sách nội địa của Trung Quốc ảnh hưởng đến thương mại với các nước láng giềng.
Các biện pháp kiểm soát biên giới chặt chẽ của Trung Quốc theo chính sách zero-Covid đã hạn chế nghiêm trọng xuất khẩu nông sản của Việt Nam và việc giảm đột ngột nguồn cung đầu vào từ Trung Quốc sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất công nghiệp của Việt Nam. Ngoài ra còn có nguy cơ Trung Quốc có thể khai thác điểm yếu của các đối tác thương mại để đạt được nhượng bộ trong các tranh chấp ngoại giao hoặc lãnh thổ.
Mô hình thương mại hiện tại cũng phản ánh mức độ công nghiệp hóa thấp của Việt Nam với đặc điểm là sản xuất hàng hóa sử dụng nhiều lao động và tham gia vào các giai đoạn sơ bộ của chuỗi cung ứng toàn cầu. Việt Nam có thể nâng cấp cơ cấu công nghiệp bằng cách thay thế nhập khẩu từ Trung Quốc và Hàn Quốc.
Ngoài việc từng bước đa dạng hóa xuất khẩu khỏi Mỹ, chiến lược công nghiệp hóa này sẽ phá bỏ Tam giác thương mại Thái Bình Dương mới và ổn định cấu trúc thương mại của Việt Nam. Một chính sách công nghiệp hóa mới nên tập trung vào hai khía cạnh.
Thứ nhất, chiến lược đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mới. Chính phủ đưa ra các dự án FDI mới theo từng trường hợp, cải thiện cơ sở hạ tầng và đưa ra các biện pháp khuyến khích để khuyến khích thay thế nhập khẩu cho các thành phần công nghệ cao và các sản phẩm công nghiệp trung gian khác. Vào tháng 8/2019, Việt Nam đã ban hành nghị quyết kêu gọi một chính sách FDI mới.
Nghị quyết nhấn mạnh việc giới thiệu các dự án chất lượng cao, (sản xuất các sản phẩm có kỹ năng cao, sử dụng công nghệ cao) ngay cả khi chính sách FDI rộng rãi hơn chưa được thực hiện. Mặc dù Việt Nam thiếu khung FDI mới một phần là do đại dịch, nhưng chính sách chủ động hơn và các sáng kiến cụ thể là cần thiết để đạt được các mục tiêu kinh tế và thương mại của Việt Nam.
Thứ hai, nguồn cung lao động có kỹ năng cần được mở rộng để nâng cấp cơ cấu công nghiệp của Việt Nam. Việc nâng cấp các trường cao đẳng kỹ thuật chuyên ngành và mở rộng các khoa khoa học và công nghệ trong các trường đại học lớn nên là trọng tâm của việc nâng cấp này.
Một giải pháp tức thì hơn là kết nối các thực tập sinh kỹ thuật của Việt Nam ở các nước tiên tiến, cụ thể như Nhật Bản, với các doanh nghiệp nước ngoài và địa phương đầu tư vào các sản phẩm công nghiệp chất lượng cao hơn tại Việt Nam. Số lượng lao động có tay nghề Việt Nam đi thực tập tại Nhật Bản lên tới 220.000 người vào cuối năm 2019.
Ngoài ra, tại Nhật Bản, số lượng lao động có tay nghề cao của Việt Nam đã vượt qua các kỳ thi trong các lĩnh vực kỹ thuật cụ thể và có trình độ tiếng Nhật trung cấp ngày càng tăng. Vào cuối năm 2020, số công nhân lành nghề cụ thể này là 15.663. Đầu tư vào thế hệ lao động trẻ có kỹ năng cao cuối cùng sẽ giúp Việt Nam nâng cao năng lực công nghiệp của mình.