Gần sáu chục năm đã trôi qua, mỗi bận về làng, tôi vẫn nhớ như in khung cảnh chợ Chèm cũ. Đó là hai dãy nhà gạch xây như hành lang của biệt thự, mái ngói chạy dài một mạch. Khi tôi lớn lên, những cây bàng trồng hai đầu chợ đã thành cổ thụ, bóng trùm lên hai dãy chợ, khiến chợ Chèm luôn trong không khí râm mát. Lá bàng bốn mùa rụng kín trên mái, mùa bàng quả chín, quả xanh rơi lổn nhổn lối đi...
Chợ Chèm bán buôn đủ thứ. Chợ có cả một gánh phở của một người đàn ông trong làng tên là Bảo. Làng tôi vốn từng có một đội cải lương làng, dù chả có đạo diễn nào mà cứ phân vai người nọ, chỉ bảo người kia, dám dựng hàng loạt kịch bản dài hơi cỡ Kiều Nguyệt Nga, Lý Công, Thanh Xà - Bạch Xà, Bao Công xử án Quách Hòe... Có lẽ vì lây cái máu sinh ra từ các tích cải lương đó nên chủ gánh phở được dân làng gọi là Tần Thúc Bảo. Hồi bé, tôi và bọn trẻ xóm ngoài đê rất thèm phở. Nhưng phở là món quà khác hẳn bánh đúc, bánh rán, bánh đa, cháo xe... Chỉ khi nào tôi ốm, mẹ tôi mới sai chị tôi mang ba xu ra mua phở. Vì thế nhiều khi ỳ ùm ở sông về qua hàng phở Tần Thúc Bảo ngửi mùi phở thơm lựng, tôi nổi cơn thèm, bèn giả ốm, bỏ cơm đòi ăn phở... Các ông bố, bà mẹ xóm ngoài đê dạo đó có mẹo dọa trẻ con không dám ăn thứ quà cao cấp, đắt tiền đó liền phao tin là ông Tần Thúc Bảo thường ra sông vớt xác tây đen trôi từ mạn ngược về dóc thịt lấy xương ninh nước phở. Bọn trẻ nghe, lè lưỡi, rụt đầu, kinh sợ được dăm hôm thì cơn thèm phở vẫn trở lại, giày vò dạ dày háu đói của chúng...
Vào tuổi lên mười, mỗi khi gần đến tết, tôi lại thắc mắc, tại sao chợ Chèm khang trang, đàng hoàng thế mà không có phiên soi như phiên chợ cuối cùng mở vào ngày 27 tháng chạp của chợ Vẽ?
Làng Vẽ so với làng Chèm nhìn về hình thức, quy mô thì cũng một chín, một mười. Chỉ có chợ Vẽ không thể bì với chợ Chèm được.
Chợ Vẽ là tập hợp những túp lều mái lợp rạ xơ xác, dựng trên bốn cái cốt tre, bốn phía trống trải. Ngày nắng còn đỡ, vào ngày mưa, mùa đông thì bãi chợ nát nhoét bùn vì chân người đi. Người ngồi bán co ro trong những chiếc áo tơi lá, chân tay run rẩy vì lạnh, môi thâm tím lại, gió bấc hun hút từ sông Hồng tràn qua đê thốc vào. Chợ Vẽ lại không có thùng nước phở luôn sôi ùng ục trên bếp củi đỏ rực, tỏa ra mùi thơm lừng khuấy trộn lòng dạ luôn luôn đói của lũ trẻ... Ấy vậy mà căn chợ đơn sơ, trống hoang ấy lại có phiên chợ Vẽ soi tuyệt vời hấp dẫn, chứa đầy khát khao của người dân hai làng Chèm, Vẽ, nhất là đám trẻ con chúng tôi.
Chợ Vẽ ngày nào cũng nhóm họp, nhưng phiên chính rơi vào ngày 2, ngày 7. Phiên chợ chính bao giờ cũng đông khách mua, người bán. Không kể dân hai làng Chèm, Vẽ, dân trong vùng cũng kéo đến tụ tập bán, mua. Dân từ Bồng Lai, Bá Giang, từ Kẻ Thượng, Kẻ sòi, Đăm, Trôi, Nhổn, Hoàng, Mạc... xuống. Dân từ Cổ Nhuế, Bưởi, Cáo, Sở ra. Dân từ Bạc, Xù, Gạ, Tứ Tổng, Tứ Liên, Yên Phụ... lên. Dân bên Phúc Yên, Tráng Việt... chèo đò qua... Thôi thì đủ sản vật các miền tụ tập về. Giang nứa, gỗ thớt từ Bồng Lai, Bá Giang, cam Canh, bưởi Diễn, xôi các loại, bánh trôi, bánh chay của Xù, Gạ... Riêng làng Chèm, Vẽ góp hai mặt hàng nổi tiếng đã đi vào ngạn ngữ ẩm thực của Kinh thành Thăng Long: “Giò Chèm, nem Vẽ”...
Ấy vậy mà so với phiên chợ chính đông vui, sầm uất, phiên chợ Vẽ soi vẫn có sức hấp dẫn kỳ lạ, bắt đầu từ sự... hiếm. Phiên chợ Vẽ soi cả năm chỉ có một lần. Đó là phiên chợ mua sắm cuối cùng trong năm để bàn dân thiên hạ chuẩn bị bước vào đón Tết Nguyên đán.
Sự hấp dẫn còn vì sự đa dạng, phong phú của các mặt hàng đủ đáp ứng mọi nhu cầu mua, bán của người dân quanh năm chắt bóp, dành dụm để có một cái tết sum họp gia đình, thờ cúng tổ tiên, để có cái tết khỏi thua chị, kém em. Ngoài những vật dụng thường nhật, người đi chợ soi có thể mua lá dong, lạt tre... làm bánh chưng, mua măng, nấm... của miền ngược, đong được gạo nếp, gạo đồ, tám thơm, ré... mang từ làng Vòng, làng Thanh Trì ra, mua được cả lọ lục bình, đỉnh đồng... từ phố mang lên mà phiên thường không có...
Đối với bọn trẻ chúng tôi, Chợ Vẽ soi thật rộn ràng, vui tươi bởi màu sắc, bởi muôn tiếng động vui tươi, náo động. Không chỉ phong phú về hàng hóa mà bên cạnh những túp lều chợ mái rơm quê, giữa những bãi trống trong chợ, những trò chơi từ đâu đâu tràn về. Những anh chàng mặc áo xanh đỏ đi cà kheo, tung hứng, những chú khỉ lông vàng, mặt đỏ nhảy nhót, uốn éo quanh những vòng sắt tròn... Tôi còn nhớ phiên chợ Vẽ soi năm tôi 12 tuổi, người ta còn dắt về một con gấu nâu to lớn, lặc lè đi vài bước lại lăn đùng ra chìa bàn tay đầy lồng xin mía, xin mật, xin tiền... Những bàn quay số có thưởng bằng những đoạn kẹo kéo, kẹo bông, kẹo mạch nha... Chiếc xe đạp của ông kem Nam Hoa phiên chợ soi nào cũng chở thêm một thùng tiết bò nghễu nghện đằng sau xe mà chỉ chưa đầy nửa phiên đã hết sạch. Phiên chợ Vẽ soi, ông bố, bà mẹ nào cũng chiều con hơn ngày thường...
Nhưng có lẽ hấp dẫn nhất với đám trẻ chúng tôi là dãy hàng tranh Đông Hồ sặc sỡ. Năm nào cũng từng nấy tranh vẽ, những thứ mà bọn trẻ chúng tôi đã quen thuộc từ buổi đi chợ soi đầu tiên với mẹ. Vậy mà năm nào hàng tranh ấy cũng hấp dẫn, thu hút chúng tôi. Vào phiên soi, hàng tranh ở đâu mà dồn về chợ Vẽ nhiều thế. Hàng, hàng ngồi kề liền nhau. Hàng nào cũng trải chiếu và bắc những xà nứa ngang để bày và treo tranh. Chả cứ bọn trẻ chúng tôi xô đến hàng tranh mà cả các cụ già, người lớn. Họ ngắm nghía, chọn tranh tứ tiết “tùng, cúc, trúc, mai”, câu đối... Còn lũ trẻ chúng tôi lom khom, đứa ngồi, đứa bò chỉ chỏ, bàn tán những bức tranh quá quen thuộc. Nào là tranh gà mẹ nuôi con, tranh con gà sống cao cổ như sắp bật ra tiếng gáy ngạo nghễ, tranh đàn lợn có xoáy âm dương, thằng bé ôm con vịt, ông tướng dán ngoài cổng để trừ tà ma, Ngô Vương ngự thuyền diệt quân Ngô, Hai bà Trưng ngạo nghễ trên bành voi vung gươm diệt quân Hán...
Đã vào tuổi thất thập, ngồi nhớ lại phiên chợ Vẽ soi đã mãi mãi rời xa hơn sáu mươi năm, tự nhiên lại bần thần thương đàn cháu nội ngoại và đám trẻ cùng lứa của chúng! Phố phường hiện đại, những siêu thị sáng choang, thơm phức... liệu có mang lại cho lũ trẻ ngày nay những tưởng tượng, ước mơ và cả niềm vui thơ ngây mà những phiên chợ soi xưa mang lại cho lứa tuổi chúng tôi không?