Tác động từ chính sách
Phát biểu tại hội thảo, ông Đỗ Văn Chiến - Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc (UBDT) cho hay: Trong 15 năm thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW về công tác dân tộc, các bộ, ngành đã tham mưu Chính phủ ban hành hàng chục nghị quyết, nghị định và hàng trăm quyết định, chỉ thị nhằm phát triển kinh tế - xã hội của vùng dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN). Đến nay còn khoảng 118 chính sách còn hiệu lực, phân thành 3 nhóm chính: Nhóm chính sách đặc thù theo dân tộc và nhóm dân tộc; nhóm chính sách phát triển kinh tế - xã hội theo vùng; nhóm chính sách phát triển kinh tế - xã hội theo ngành hàng, lĩnh vực. Cùng đó, hầu hết các tỉnh, thành phố đều đã xây dựng, ban hành các chính sách dân tộc đặc thù sử dụng ngân sách địa phương.
Bà Trương Thị Mai - Ủy viên Bộ Chính trị,Trưởng ban Dân vận Trung ương tổng kết Nghị quyết 24-NQ/TW và Chỉ thị số 45-CT/TW: Chính sách phát triển dân tộc thiểu số và miền núi phải gắn với yếu tố bền vững |
Với số lượng chính sách hỗ trợ lớn và toàn diện đó, 15 năm qua, vùng DTTS&MN đã đạt được những thành quả đáng tích cực trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hoá, an ninh quốc phòng. Trong đó, sự thay đổi đáng kể về kinh tế được nhìn nhận là điểm sáng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng khá cao, bình quân các tỉnh vùng Tây Bắc tăng 8,4%, vùng Tây Nguyên tăng 8,1%, vùng Tây Nam bộ tăng 7,3%. Đời sống của bà con vùng DTTS&MN ngày càng được nâng cao, tỷ lệ hộ nghèo bình quân toàn vùng giảm 2-3%/năm, riêng các xã đặc biệt khó khăn giảm 3-4%/năm, huyện nghèo giảm 5-6%/năm.
Chia sẻ về kinh nghiệm thực hiện công tác dân tộc tại địa phương, ông Lê Trí Thanh - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam cho hay: Những người có uy tín là các già làng, trưởng bản, cán bộ nghỉ hưu… tại các thôn, bản có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác tuyên truyền chính sách của Đảng và nhà nước. Trên địa bàn tỉnh Quảng Nam có 400 thôn bản, mỗi thôn bản đều có người có uy tín đang phát huy khả năng trong phát triển kinh tế, ổn định xã hội, vận động đảm bảo an ninh quốc phòng. Tỉnh cũng thường xuyên quan tâm, hỗ trợ vật chất và tinh thần cho đội ngũ người có uy tín. Hàng năm hướng dẫn và đưa những người uy tín không còn khả năng hoạt động ra khỏi danh sách và bầu người có uy tín mới.
Dù đã thay đổi rõ nét, tuy nhiên theo phản ánh của nhiều đại biểu, vùng DTTS&MN vẫn đang tồn tại nhiều bất cập, trong đó đồng bào DTTS đang đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với sự phát triển chung của đất nước; một số DTTS có nguy cơ mất bản sắc văn hoá; tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức là người DTTS trong cơ quan quản lý nhà nước các cấp có xu hướng giảm… Vấn đề di cư tự do, thiếu đất sản xuất cũng chưa được giải quyết hiệu quả. Cơ sở hạ tầng yếu kém, chất lượng giáo dục, y tế… chưa cao cũng là những vấn đề đang bất cập tại vùng DTTS&MN hiện nay.
Trao quyền chủ động cho địa phương
Những bất cập trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó việc có quá nhiều chính sách nhưng dàn trải, manh mún và không lồng ghép được nguồn lực, chồng chéo trong công tác triển khai thực hiện và quản lý. Đáng nói, một số chính sách còn mang tính hỗ trợ, gây tâm lý trông chờ, ỷ lại của người dân.
Theo TS. Hoàng Xuân Lương - Nguyên Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm UBDT, kinh tế đất nước phát triển càng nhanh, nguy cơ tụt hậu của vùng DTTS&MN càng lớn. Thực tế, vùng này đang trở thành rốn nghèo của cả nước. Do vậy, trong thời gian tới, Chính phủ cần ban hành những chính sách phù hợp hơn cho vùng DTTS&MN phát triển, trong đó trao quyền cho các địa phương trong xây dựng chính sách nhằm phù hợp với điều kiện thực tế.
Các đại biểu đề xuất những chính sách hữu hiệu cho phát triển toàn diện vùng dân tộc thiểu số và miền núi |
Đồng tình với quan điểm trên, ông Lò Văn Tiến - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Điện Biên đóng góp: Trong xây dựng chính sách, cấp Trung ương chỉ xây dựng chính sách khung, việc cụ thể hoá chính sách giao cho tỉnh. Căn cứ đặc thù, địa phương mới tính toán nên ưu tiên đầu tư cái gì trước, cái gì sau.
Bên cạnh đó, thế mạnh của các tỉnh miền núi là lâm nghiệp, do vậy xây dựng chính sách sao cho đồng bào DTTS sống được bằng rừng. Hạn chế chính sách cho không, gia tăng cho vay để kích thích bà con chủ động phát triển kinh tế. Ngoài ra, công tác cán bộ cũng cần xem xét lại, gia tăng tỷ lệ cán bộ là người dân tộc thiểu số trong các cơ quan quản lý nhà nước.
Với những đề xuất trên, bà Trương Thị Mai - Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Dân vận Trung ương tổng kết Nghị quyết 24-NQ/TW và Chỉ thị số 45-CT/TW chỉ ra nhiều vấn đề cần tập trung trong công tác xây dựng chính sách phát triển kinh tế- xã hội vùng DTTS&MN trong thời gian tới. Theo đó, hệ thống chính sách phải được sắp xếp và nâng cao hiệu quả và thực hiện trong cơ chế điều hành hợp lý. Tăng chính sách hỗ trợ tín dụng, nâng cao tính trách nhiệm của đồng bào.
Bên cạnh đó, có chính sách thúc đẩy đặc thù, áp dụng riêng cho từng vùng, từng dân tộc, không nên áp dụng chung chính sách cho tất cả các vùng. Chính sách phải gắn với điều kiện sinh sống, phát huy được văn hoá, phong tục tập quán của nhóm DTTS. “Đặc biệt, thiết kế chính sách phải đủ, mạnh, quyết tâm, hiệu quả và gắn với phát triển bền vững. Đồng thời, chính sách cho vùng DTTS&MN phải được lồng ghép có đầu mối quản lý, chịu trách nhiệm”, bà Trương Thị Mai nhấn mạnh.