Đàm phán thất bại, Nga chuẩn bị cắt nguồn cung khí đốt cho Ukraine Nga đồng ý nối lại nguồn cung khí đốt cho Ukraine tới tháng Ba |
Nhật Bản và Hàn Quốc, nhà nhập khẩu khí đốt tự nhiên hóa lỏng lớn thứ hai và thứ ba trên thế giới, đang tìm cách đảm bảo nguồn cung cho những tháng mùa đông và xa hơn, vì lo ngại rằng chúng sẽ bị đội giá vào cuối năm khi nhu cầu tăng lên ở châu Âu. Sự cạnh tranh gay gắt từ châu Á diễn ra vào thời điểm nhu cầu về khí đốt tự nhiên hóa lỏng tăng cao, được vận chuyển bằng đường biển trong các tàu siêu nổi, khi châu Âu cố gắng thay thế khí đốt tự nhiên được cung cấp qua đường ống từ Nga. Giá khí đốt tự nhiên ở châu Âu đã tăng gần 5 lần so với năm ngoái, làm tăng mạnh chi phí năng lượng cho người tiêu dùng và giáng một đòn mạnh vào các công ty tiện ích.
Hợp đồng dải là việc mua hoặc bán các hợp đồng trong các tháng liên tiếp, với người mua và người bán có thể ấn định giá trong suốt khung thời gian. Nhật Bản và Hàn Quốc có vấn đề về an ninh năng lượng. Các nhà giao dịch thực sự lo ngại về những gì sẽ xảy ra trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Châu Á là điểm đến chính của khí đốt tự nhiên hóa long với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc là ba nhà nhập khẩu lớn nhất thế giới.
Giá kỷ lục ở châu Á đã hơn một lần được giao dịch cao hơn giá châu Âu. Tuy nhiên, TTF, giá khí đốt chuẩn của châu Âu, hiện cao hơn nhiều so với đối tác châu Á do nhu cầu tăng ở châu Âu, khi khu vực này tìm cách thay thế khí đốt của Nga đang giảm. Kể từ cuối tháng 7, dòng khí đốt của Nga từ đường ống dẫn dầu chính của châu Âu Nord Stream 1 đã giảm xuống còn 20% công suất. Các quan chức châu Âu lo ngại sẽ có thêm nhiều đợt cắt giảm trong tương lai.
Giá cao hơn ở châu Âu có nghĩa là có nhiều động lực thương mại hơn để gửi các lô hàng khí đốt tự nhiên hóa lỏng đến đó để có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Mức chênh lệch lớn đến mức trong một số trường hợp các nhà giao dịch có hợp đồng dài hạn ở châu Á có thể chấm dứt hợp đồng hiện tại và trả tiền phạt, nhưng họ vẫn có thể kiếm lời nếu bán lại ở châu Âu.
Châu Âu và châu Á đang cạnh tranh mạnh mẽ đối với khí đốt tự nhiên hóa lỏng từ Mỹ. Quốc gia này đã xuất khẩu 74% khí đốt tự nhiên hóa lỏng sang châu Âu trong 4 tháng đầu năm nay, so với mức trung bình hàng năm là 34% vào năm ngoái. Cơ quan Thông tin Năng lượng cho biết châu Á là điểm đến chính vào năm 2020 và 2021. Trong khi các quốc gia như Nhật Bản và Hàn Quốc có thể chịu được phần nào sự tăng giá, các quốc gia châu Á đang phát triển thiếu tiền mặt phải chịu gánh nặng của việc tăng giá.
Một thương nhân cho biết động lực thị trường hiện tại có nghĩa là “sẽ có lúc châu Á cần phải trả nhiều hơn mức chênh lệch” để thu hút các lô hàng khí đốt tự nhiên hóa lỏng. Mặc dù nhà giao dịch vẫn chưa thấy bất kỳ hoạt động định giá nào ở mức độ này, nhưng "không phải là vấn đề trước mùa đông" vì vẫn còn nghi ngờ về mức dự trữ khí đốt ở châu Âu và nguồn cung cấp LNG từ dự án Sakhalin-2 của Nga.
Dự án này đại diện cho 10% lượng khí đốt tự nhiên hóa lỏng nhập khẩu của Nhật Bản và được quốc hữu hóa theo lệnh của Tổng thống Nga Vladimir Putin. Một thương nhân khác cho biết các động thái từ Trung Quốc, nhà nhập khẩu khí đốt tự nhiên hóa lỏng lớn nhất, đã yếu đi trên thị trường toàn cầu, nhưng vẫn là "trò đùa" cho đến mùa đông.
Nhu cầu khí đốt trong nước nhìn chung thấp do kinh tế suy thoái do đại dịch, và đã giảm đáng kể sự phụ thuộc vào khí đốt tự nhiên hóa lỏng giao ngay, đến mức nhu cầu khí đôt hiện tại gần như hoàn toàn phụ thuộc. Trung Quốc cũng đang bán lại khí đốt mà họ không cần, giúp giảm bớt một số khó khăn trên thị trường toàn cầu. Tuy nhiên, các thương nhân cho biết thị trường nhận thức rõ những rủi ro mà các công ty Trung Quốc đang “nhập cuộc vào phút chót” để mua khí đốt tự nhiên hóa lỏng. Chuyên gia Samantha Dart - người đứng đầu bộ phận nghiên cứu khí đốt tại Goldman Sachs - cho biết khi mùa đông đang đến gần, các quốc gia như Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ cần phải xây dựng lại kho chứa.
Hơn nữa, nếu hoạt động kinh tế Trung Quốc bắt đầu phục hồi rõ ràng hơn, có thể có sự thay đổi đáng kể trong cán cân khí đốt. Nếu lượng khí đốt cung cấp cho châu Âu ít hơn, điều này có nghĩa là châu Âu cần dựa vào khả năng giảm nhu cầu trong nước nhiều hơn.