Longform
02/09/2025 17:33
Longform

Cây dược liệu mở lối thoát nghèo cho đồng bào

Thứ Ba, 02/09/2025 17:33:00 +07:00

(Công Thương) - Trồng và khai thác cây dược liệu đang trở thành hướng đi hiệu quả, giúp đồng bào dân tộc miền núi nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống, xóa đói giảm nghèo.

Ở nhiều bản làng vùng cao, cuộc sống đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều khó khăn. Truyền thống canh tác nương rẫy, chủ yếu tự cung tự cấp, khiến đời sống bà con bấp bênh, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu, mùa vụ thất thường. Tuy nhiên, trong vài năm gần đây, một hướng đi mới đang mở ra cơ hội xóa đói giảm nghèo bền vững, đó là phát triển cây dược liệu.

Cây dược liệu không chỉ là sản phẩm kinh tế; với nhiều loại cây bản địa, đây còn là cách đồng bào kết hợp tri thức truyền thống với khoa học – kỹ thuật hiện đại để nâng cao giá trị nông sản. Một số vùng núi phía Bắc và Tây Nguyên đã trở thành điểm sáng, nơi những mô hình trồng cây dược liệu mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt, thay đổi cách làm ăn truyền thống của bà con.

Là một trong những người tiên phong trồng cây dược liệu tại Sì Lở Lầu, xã biên giới tỉnh Lai Châu, anh Phàn Phủ Liêu (bản Thà Giàng) cho biết, các loại lá thuốc, cây dược liệu dùng để sắc uống, bôi, đắp hay tắm vốn quen thuộc với bà con người Dao. Đây là “quà quý từ núi rừng”, truyền từ bao đời, vừa phục vụ chữa bệnh, vừa chăm sóc sức khỏe, mọc tự nhiên quanh nhà, vườn, nương rẫy và trong rừng sâu.

Nhận thấy tiềm năng kinh tế, năm 2018, sau khi tham quan và học hỏi mô hình hiệu quả ở các huyện lân cận, anh Liêu trồng thử nghiệm hơn 4.000 gốc tam thất, với chi phí đầu tư ban đầu khoảng 600 triệu đồng cho vườn ươm, tường bao, mái che và hạt giống. “Cây dược liệu phát triển chậm, có thể mất 6–7 năm mới thu hoạch, nên đòi hỏi kiên trì. Mình đầu tư mô hình vừa để bảo tồn cây dược liệu Việt Nam, vừa hướng dẫn bà con sản xuất, tăng thu nhập gia đình”, anh chia sẻ.

Từ niềm đam mê với các vị thuốc quý, anh Liêu nghiên cứu, tra cứu sách báo, internet và trao đổi với nông dân giỏi, xây dựng những khu vườn xanh tốt với hàng chục loài dược liệu như tam thất, lan kim tuyến, đương quy, sâm… Anh hướng dẫn bà con đào luống, sàng đất, loại bỏ rác đá, gieo hạt và phủ lá để chống xói mòn. Cây dược liệu không dùng phân vô cơ mà bón lá cây mục để bổ sung dưỡng chất.

Cây dược liệu mở lối thoát nghèo cho đồng bào - 1

Mô hình của anh Liêu đã thúc đẩy nhiều hộ dân Sì Lở Lầu chuyển đổi vườn tạp sang trồng dược liệu. Dù phát triển chậm, tam thất và các cây quý đều tăng giá trị kinh tế từng năm, trở thành nguồn thu bền vững.

Phát triển cây dược liệu dưới tán rừng là chủ trương lớn của tỉnh Lai Châu, với nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ gia đình, tạo cơ hội xóa đói giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc thiểu số.

Tại xã Sìn Hồ, gia đình anh Chẻo A Dao trồng đương quy, mỗi mùa thu hoạch mang lại gần 100 triệu đồng, giúp cải thiện đời sống, không phải làm thuê hay lên nương rẫy, có điều kiện sửa nhà và lo cho con cái học hành. “Trước đây, gia đình khó khăn, giờ nhờ cây đương quy, thu nhập ổn định, cuộc sống khấm khá hơn hẳn”, anh chia sẻ.

Tại Gia Lai, HTX Nông nghiệp thương mại dịch vụ Tơ Tung (xã Tơ Tung) phát triển từ 9 thành viên lên 67, trồng và chiết xuất sả dược liệu. Nhờ tuân thủ tiêu chuẩn OCOP, sản phẩm tinh dầu sả của HTX đạt OCOP 3 sao cấp tỉnh, được Công ty Dược và Thiết bị y tế Đà Nẵng bao tiêu, mang thu nhập trung bình 50–60 triệu đồng/ha/năm, theo chị Nguyễn Thị Thanh Hương, Chủ tịch HTX.

Trong vùng đệm Khu bảo tồn thiên nhiên Kon Chư Răng, nhiều doanh nghiệp đầu tư cùng người dân khai thác tiềm năng dược liệu, với các dự án trồng sa nhân tím, sâm đá, đương quy, đinh lăng, nghệ… Tại Thanh Hóa, xã Bá Thước, các hộ dân chuyển đổi vườn tạp sang trồng hoàng ngọc, xương khỉ, cà gai leo, xạ đen, hoàn ngọc. Trồng 1 ha dược liệu, ông Nguyễn Hải thu nhập khoảng 200 triệu đồng/năm, gấp nhiều lần so với hoa màu trước đây, đồng thời tạo việc làm cho 10–20 lao động địa phương.

Cây dược liệu mở lối thoát nghèo cho đồng bào - 2

 

Ông Trương Văn Nghị cũng mạnh dạn vay vốn trồng 1,5 ha hoàn ngọc và xương khỉ từ năm 2020, đến nay mang lại thu nhập ổn định, giúp gia đình thoát nghèo. Hiện xã Bá Thước có gần 100 hộ tham gia trồng dược liệu với diện tích khoảng 40 ha. Trên toàn tỉnh Thanh Hóa, gần 1.000 loài cây dược liệu đang được trồng trên 5.000 ha đất nông nghiệp và 94.000 ha dưới tán rừng, cho sản lượng khoảng 550 tấn/năm, trong đó khoảng 20 loài quý như ba kích, đinh lăng, củ mài, hòe, hương nhu trắng, ích mẫu, quế, sa nhân, huyền sâm, xuyên tâm liên, nghệ vàng, cà gai leo.

Những mô hình trồng dược liệu không chỉ tạo thu nhập ổn định mà còn giúp đồng bào miền núi khai thác lợi thế địa phương, xóa đói giảm nghèo và vươn lên làm giàu bền vững.

Cây dược liệu mở lối thoát nghèo cho đồng bào - 3

Với nguồn tài nguyên thực vật phong phú, Việt Nam sở hữu nhiều cây dược liệu quý hiếm, có tên trên bản đồ dược liệu thế giới. Ngoài những loài đặc hữu như quế, hồi, cam thảo, nhiều cây như huyết đằng, trà hoa vàng, đinh lăng, actiso đang được nhân rộng, giúp các hộ gia đình nâng cao thu nhập và thoát nghèo.

Tổng diện tích phát triển cây dược liệu cả nước đạt 357.178 ha, trong đó 220.178 ha trồng trên đất quy hoạch lâm nghiệp và dưới tán rừng, 137.000 ha trồng trên đất nông nghiệp, cả cây lâu năm và cây ngắn ngày. Hiện cả nước có khoảng 150 loại cây dược liệu được gây trồng.

Hệ sinh thái rừng đa dạng mở ra tiềm năng lớn cho phát triển cây dược liệu dưới tán rừng, đặc biệt tại vùng cao, nơi đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống dựa vào rừng. Đây là hướng đi vừa tạo sinh kế ổn định, vừa góp phần bảo vệ và làm giàu tài nguyên rừng.

Tuy nhiên, nếu thiếu quy hoạch và kỹ thuật, mô hình dễ đi lệch hướng. Ví dụ điển hình là thảo quả và sa nhân. TS. Phạm Quang Tuyến (Viện Nghiên cứu Lâm sinh, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam) cho biết, thảo quả từng là “cây đổi đời” nhờ giá trị thương mại cao, được trồng phổ biến ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Lào Cai, Điện Biên, Lai Châu, Tuyên Quang. Tuy nhiên, thảo quả cần nhiều ánh sáng trong giai đoạn ra hoa, kết trái, dẫn tới việc người dân tự ý tỉa thưa tán rừng hoặc chặt cây gỗ lớn. Sau thu hoạch, nhiều nơi vẫn dùng củi rừng sấy quả, gây mất tán che và mất gỗ – dẫn đến suy giảm kép tài nguyên rừng. Sa nhân cũng đối mặt tình trạng tương tự.

“Ban đầu các mô hình đem lại thu nhập khá, nhưng trồng tự phát, thiếu kỹ thuật và quy hoạch cụ thể khiến nhiều tỉnh không còn khuyến khích thảo quả, sa nhân, mà chuyển sang các loài dược liệu quý, phù hợp hơn với điều kiện rừng, đặc biệt là họ nhân sâm”, TS. Tuyến phân tích. Ông nhấn mạnh, phát triển cây dược liệu dưới tán rừng cần kết hợp khoa học, kỹ thuật và quy hoạch để vừa nâng cao thu nhập, vừa bảo vệ và phát triển bền vững nguồn tài nguyên rừng.

Cây dược liệu mở lối thoát nghèo cho đồng bào - 4

Nghiên cứu và thực tế cho thấy nhiều loài dược liệu quý có thể trồng dưới tán rừng mà không phá vỡ cấu trúc sinh thái, thậm chí góp phần phục hồi rừng, điển hình như sâm Ngọc Linh, sâm Lai Châu, tam thất hoang, bảy lá một hoa, lan kim tuyến, hoàng tinh, cẩu tích… Những cây ưa bóng này sinh trưởng tốt dưới tầng cỏ quyết hoặc tầng dưới tán rừng tự nhiên.

Hiện nhiều địa phương như Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai… đã có các mô hình trồng sâm dưới tán rừng thành công. Đây là hướng đi phù hợp cả về sinh thái lẫn kinh tế, tạo giá trị bền vững, đảm bảo lợi ích lâu dài cho người dân và môi trường.

Cây dược liệu mở lối thoát nghèo cho đồng bào - 5

Nghiên cứu và thực tế cho thấy nhiều loài dược liệu quý có thể trồng dưới tán rừng mà không phá vỡ cấu trúc sinh thái, thậm chí góp phần phục hồi rừng, điển hình như sâm Ngọc Linh, sâm Lai Châu, tam thất hoang, bảy lá một hoa, lan kim tuyến, hoàng tinh, cẩu tích… Những cây ưa bóng này sinh trưởng tốt dưới tầng cỏ quyết hoặc tầng dưới tán rừng tự nhiên.

Hiện nhiều địa phương như Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai… đã có các mô hình trồng sâm dưới tán rừng thành công. Đây là hướng đi phù hợp cả về sinh thái lẫn kinh tế, tạo giá trị bền vững, đảm bảo lợi ích lâu dài cho người dân và môi trường.

Đây là cơ hội để các địa phương phát huy tiềm năng bản địa, thu hút đầu tư vào trồng và chế biến dược liệu, đặc biệt là cây sâm, nhằm tạo chuỗi giá trị khép kín, nâng cao thu nhập cho người dân và bảo tồn đa dạng sinh học gắn với phát triển bền vững.

Theo Quyết định số 1976 của Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch tổng thể phát triển dược liệu đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, Việt Nam sẽ hình thành 8 vùng trồng nguyên liệu để phát triển 54 loài dược liệu, đồng thời lựa chọn khai thác hợp lý 24 loài tự nhiên. Đây là tiền đề để quy hoạch và phát triển nguồn dược liệu, đáp ứng nhu cầu sản xuất trong nước và hướng tới xuất khẩu, với kỳ vọng giá trị đạt hàng tỷ đô la Mỹ.

Cây dược liệu mở lối thoát nghèo cho đồng bào - 6

 

Tiềm năng phát triển dược liệu dưới tán rừng là rất lớn, nhưng để khai thác hiệu quả và bền vững, cần đồng bộ từ quy hoạch, kỹ thuật đến chế biến. TS Phạm Quang Tuyến nhấn mạnh, ần quy hoạch vùng trồng rõ ràng, phù hợp thổ nhưỡng, độ cao và sinh thái rừng, tránh trồng tự phát trong rừng đặc dụng hay vùng lõi, gây nguy cơ suy thoái hệ sinh thái.

Bên cạnh đó, việc chuyển giao kỹ thuật cho người dân là yếu tố sống còn. Thay vì phát dọn sạch rừng, chỉ cần xử lý dây leo, tạo lối đi, giữ cây tái sinh và lớp cây kế cận để bảo đảm rừng đa tầng.

Hệ thống chế biến và bảo quản cần đầu tư đồng bộ tại vùng trồng. Hiện nhiều nơi vẫn sấy dược liệu bằng củi rừng, dẫn đến mất rừng nghiêm trọng; việc ứng dụng năng lượng tái tạo như điện hoặc mặt trời cần được nhân rộng.

Ngoài ra, vùng trồng phải được kết nối với cơ sở chế biến đạt chuẩn, sản xuất theo GACP-WHO, hướng tới xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Khi tất cả khâu liên kết, dược liệu dưới tán rừng mới thực sự trở thành ngành hàng kinh tế sinh thái bền vững.

Trong bối cảnh nền kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn, khai thác tiềm năng cây dược liệu dưới tán rừng một cách thông minh vừa mang lại lợi ích môi trường, vừa là chiến lược quan trọng xóa đói giảm nghèo, phát triển vùng sâu vùng xa.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Quốc Trị chỉ rõ tình trạng bất cập hiện nay khi nhiều chương trình cùng triển khai bảo vệ rừng, như nông nghiệp, giảm nghèo đến các chương trình mục tiêu cho đồng bào dân tộc thiểu số. Ông đề nghị, về nghiên cứu, định hướng là cây bảo tồn phải là cây bản địa, cây sản xuất phải là giống chất lượng cao.

Quyền Bộ trưởng Trần Đức Thắng nhấn mạnh phải giữ rừng trên diện tích thực tế, không “thống kê ảo”, huy động nguồn lực từ cơ chế thuê môi trường rừng và xây dựng Chiến lược lâm nghiệp gắn với phát triển bền vững.

Ông Lê Minh Hoan, Phó chủ tịch Quốc hội và lãnh đạo tỉnh Bắc Ninh thăm quan mô hình trồng sâm nam núi Dành. Ảnh Báo Nhân dân

Ông Lê Minh Hoan, Phó chủ tịch Quốc hội và lãnh đạo tỉnh Bắc Ninh thăm quan mô hình trồng sâm nam núi Dành. Ảnh Báo Nhân dân

Bốn định hướng lớn được thống nhất gồm: xác định hiện trạng rừng; xây dựng chiến lược tổng thể từ năm 2026; nâng cao hiệu quả quản lý và chính sách nhân lực; đẩy mạnh nghiên cứu, đào tạo nhân lực chất lượng cao. Nếu triển khai đồng bộ, các định hướng này sẽ tạo nền tảng để ngành lâm nghiệp phát triển bền vững, hài hòa lợi ích sinh thái, kinh tế và xã hội, đồng thời bảo vệ tài nguyên rừng cho các thế hệ tương lai.

Nhờ cây dược liệu, đồng bào dân tộc không chỉ xóa đói giảm nghèo mà còn từng bước làm giàu, cải thiện đời sống và tự chủ kinh tế. Khi được hướng dẫn kỹ thuật, quy hoạch bài bản và kết nối thị trường, những mô hình này trở thành sinh kế bền vững, đồng thời góp phần bảo tồn rừng và nguồn tài nguyên thiên nhiên. Cùng với sự hỗ trợ của chính sách khuyến khích phát triển cây dược liệu, đây là hướng đi dài hạn giúp đồng bào miền núi phát triển kinh tế – xã hội toàn diện, gắn kết lợi ích người dân với bảo vệ môi trường.

Cây dược liệu mở lối thoát nghèo cho đồng bào - 8

Có thể bạn quan tâm