CôngThương - Khoản 1 Điều 54 dự thảo Hiến pháp sửa đổi khẳng định: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế”.
Điều 57 dự thảo Hiến pháp sửa đổi quy định: “Đất đai, tài nguyên nước, khóang sản và tài nguyên thiên nhiên khác, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa, vùng trời và các tài sản khác do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, đã và sẽ còn sự thiếu nhất quán về thể chế kinh tế và thể chế về đất đai. Mỗi chế độ sở hữu đất ghi trong Hiến pháp đều quy định thể chế đất đai căn cứ vào điều kiện kinh tế- xã hội ở mỗi nước trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Cho đến nay, thế giới mới biết đến hai thể chế sở hữu đất đai là chế độ sở hữu toàn dân áp dụng ở những nước có nền kinh tế công hữu và chế độ đa sở hữu áp dụng ở các nước có nền kinh tế thị trường nhiều thành phần (đa sở hữu).
Thể chế đất đai ở nước ta đã được quy định trong cả bốn bản Hiến pháp. Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 là hiến pháp của thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc, trong đó thể chế đất đai đều khẳng định là đa sở hữu, phù hợp với nền kinh tế đa sở hữu thời đó. Hiến pháp 1980 được xây dựng trên cơ sở nền kinh tế cả nước đã công hữu hóa thông qua các chính sách cải tạo kinh tế (như hợp tác hóa nông nghiệp, thủ công nghiệp và công tư hợp doanh), các đơn vị kinh tế tư doanh, cá thể đã được chuyển thành các xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã các loại. Trên thực tế, công việc này đã hoàn thành ở miền Bắc từ đầu thập niên 1960, còn ở miền Nam, hoàn thành vào cuối thập niên 1970.
Đại hội Đảng VI (1986) đã đề ra đường lối đổi mới, chuyển nền kinh tế công hữu hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần. Khi chuyển sang kinh tế thị trường, quan hệ về đất đai trong xã hội đã thay đổi căn bản. Thế nhưng Hiến pháp 1992 vẫn tiếp tục khẳng định chế độ sở hữu toàn dân về đất đai như ghi trong Hiến pháp 1980. Như vậy, thể chế đất đai đã không đồng nhất với thể chế chung của nền kinh tế. Đó là nguyên nhân của những bất cập trong hệ thống Luật Đất đai, tạo ra những mâu thuẫn lợi ích không thể dung hòa giữa người sở hữu đất với người sử dụng đất. Như vậy, Hiến pháp 1992 (và cả hệ thống pháp luật triển khai tiếp sau đó) chưa thể chế hóa nhất quán tư duy đổi mới được đề ra từ Đại hội Đảng VI.
Theo pháp luật hiện hành, người sử dụng đất- không chỉ là xí nghiệp, cơ quan nhà nước và hợp tác xã, mà còn có cá nhân và doanh nghiệp ngoài quốc doanh- muốn có đất để kinh doanh, họ phải được Nhà nước giao hoặc cho thuê. Do đó, không thể có sự thống nhất lợi ích như thời kinh tế tập trung bao cấp. Nhưng mỗi khi có mâu thuẫn lợi ích (mà bản chất là lợi ích kinh tế), giải pháp lại luôn mang tính chất hành chính, vì các cơ quan quản lý nhà nước không chỉ có ưu thế của quyền sở hữu mà quan trọng hơn là quyền lực của Nhà nước. Người sử dụng đất dù không đồng tình cũng buộc phải miễn cưỡng chấp thuận, nếu cưỡng lại có thể vi phạm pháp luật hình sự.
Xin kiến nghị nghiên cứu để thừa nhận đa sở hữu về đất đai vì những lý do sau:
Thứ nhất, chúng ta đã thừa nhận một nền kinh tế đa sở hữu, trong đó chủ doanh nghiệp tư nhân được quyền sở hữu tư liệu sản xuất, thậm chí các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc dân được cam kết bảo vệ quyền sở hữu tư liệu sản xuất của họ.
Cách đây hai năm, tranh luận về chế độ công hữu các tư liệu sản xuất- điểm then chốt của chủ nghĩa xã hội- đã kết thúc với kết quả là khái niệm này đã được gác lại. Các doanh nghiệp nhà nước đang được cổ phần hóa, tức đa dạng hóa sở hữu. Với nông dân, tại sao không thể mạnh dạn áp dụng một sự ứng xử tương tự- tức là công nhận người dân có quyền sở hữu đất đai là tư liệu sản xuất chính của họ. Làm khác đi là không tạo ra sự công bằng, là tước bỏ của người nông dân cái quyền họ mơ ước bao giờ nay. Làm khác đi, có nghĩa chỉ áp dụng “định hướng xã hội chủ nghĩa” với nông dân, còn giới doanh nghiệp thì thôi khỏi áp dụng? Hay nhìn ở góc ngược lại, xây dựng nền nông nghiệp mà đất đai không vận hành theo đúng quy luật thị trường thì, đến một ngưỡng nào đó, làm sao nông nghiệp phát triển tiếp tục.
Thứ hai, không nên đặt ra những lo ngại vô căn cứ khi thừa nhận nhiều hình thức về sở hữu đất đai. Phản bác việc đa sở hữu về đất đai, một số ý kiến nêu ra những “hậu quả xấu” như sau:
a. Sở hữu tư nhân sẽ dẫn đến tích lũy ruộng đất, làm nảy sinh “tầng lớp địa chủ” mới. Thật phi lý với lo ngại nêu trên. Bởi, trên thực tế, dù Luật Đất đai hiện hành (và cả dự thảo Luật Đất đai sửa đổi) vẫn quy định về hạn điền nhưng tích tụ ruộng đất hình thành những trang trại trong nông nghiệp, nông thôn vẫn diễn ra. Đã có không ít trang trại với quy mô hàng trăm ngàn ha đất. Đó là một chủ doanh nghiệp sản xuất quy mô lớn, tuyển hàng ngàn công nhân. Tại sao chúng ta không khuyến khích? Hơn nữa, để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn chúng ta không thể duy trì mãi cái hình ảnh “Đôi ta tát nước gầu sòng” và “Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi cày” như trước đây vài chục năm.
b. Sở hữu tư nhân về đất đai sẽ khó giải tỏa để làm các công trình công cộng hay đơn thuần là để phát triển các khu đô thị mới. Những khó khăn, vướng mắc của việc giải tỏa là có thật nhưng không xuất phát từ việc đất là thuộc quyền sử dụng hay quyền sở hữu của người dân mà xuất phát từ chính sách thiếu công bằng, công trình không thật sự cần thiết và quyền lợi của người có đất không được tôn trọng.
Như vậy, cái được gọi là “hậu quả xấu” của việc công nhận sở hữu tư nhân về đất đai lại không hề xấu. Ngược lại, cái lợi của một chế độ đa sở hữu sẽ rất nhiều: Nông dân sẽ ứng xử với đất như người chủ chứ không như người thuê như hiện nay, năng suất ắt sẽ tăng, hiệu quả sử dụng đất sẽ được nâng cao. Ngày xưa chỉ cần mảnh đất 5% mà người dân đã có thể xoay xở vượt qua những năm tháng khó khăn của thời bao cấp; nay được sở hữu 100% thì người nông dân sẽ làm ra điều thần kỳ mới.
Được sở hữu 100% đất đai thì người nông dân sẽ làm ra điều thần kỳ mới.
Hơn nữa, hiện tượng đau lòng khi những người dân bị tước mất đất, phải vác đơn đi khiếu kiện khắp nơi sẽ không còn nữa. Giới cường hào mới ở các địa phương không còn có thể dễ dàng vẽ ra dự án để tước đoạt đất của dân; giới làm ăn bất lương không thể cấu kết với giới có quyền lực để đuổi người dân ra khỏi ngôi nhà của họ. Đó mới gọi là đúng định hướng xã hội chủ nghĩa nếu hiểu khái niệm này theo nghĩa chính xác nhất của nó.
Thứ ba, sở hữu toàn dân là một mỹ từ và không có thật trong cuộc sống. Không có ai là người Việt Nam, sống trên đất Việt Nam lại có quyền cho rằng, đất đai là sở hữu toàn dân, tức là tôi được sở hữu 1/86 triệu diện tích của cả nước và cứ tự do ra cắm đất xây nhà. Vì, Nhà nước là đại diện để quản lý đất đai. Song, Nhà nước không phải là một người, một cơ quan, mà là cả một hệ thống hành pháp, từ trung ương tới 63 tỉnh, thành, hơn 500 huyện, chưa kể hàng ngàn xã cũng có quyền giao, cho thuê, thu hồi đất. Không thể có sự am hiểu pháp luật và nhất là sự công tâm của cả một đội ngũ công chức quản lý đất đai đông đảo như vậy. Cho nên, mâu thuẫn lợi ích liên quan tới việc giao, cho thuê, thu hồi, đền bù... đất diễn ra ngày càng phổ biến với mức độ ngày càng gay gắt. Đất đai trở thành vùng trũng khiếu kiện và tham nhũng và có thể nói không thể khắc phục nếu thể chế đất đai cứ tiếp tục như hiện nay.
Từ những phân tích trên đề nghị xoá bỏ hình thức sở hữu toàn dân về đất đai, thay vào đó là quy định đất đai thuộc sở hữu Nhà nước, sở hữu của công dân và sở hữu của pháp nhân.
Dù Luật Đất đai hiện hành (và cả dự thảo Luật Đất đai sửa đổi) vẫn quy định về hạn điền nhưng tích tụ ruộng đất hình thành những trang trại trong nông nghiệp, nông thôn vẫn diễn ra. Đã có không ít trang trại với quy mô hàng trăm ngàn ha đất. Đó là một chủ doanh nghiệp sản xuất quy mô lớn, tuyển hàng ngàn công nhân. Tại sao chúng ta không khuyến khích? |