Cần khách quan với việc thủy điện xả lũ
Năng lượng 11/12/2013 14:58 Theo dõi Congthuong.vn trên
CôngThương - Thưa ông, là người quản lý, điều hành 3 công trình thủy điện trên tuyến sông Sê San nhiều năm nay, ông nhìn nhận như thế nào về vấn đề thủy điện xả lũ gây ngập lụt nhiều vùng như nhiều ý kiến đã phản ánh?
Tôi rất tán đồng ý kiến của Tiến sỹ Nguyễn Bách Phúc, Chủ tịch Hội tư vấn khoa học công nghệ và quản lý TP.HCM đăng trên TuanVietnam.net. Tiến sỹ Phúc cho rằng, các công trình thủy điện không sinh ra nước, tức là lũ ở đây là lũ do trời, lũ tự nhiên. Khi lũ tràn về, nước lũ với lưu lượng rất lớn, gấp cả trăm lần lưu lượng nước lúc bình thường, đổ vào hồ, mức nước sẽ nhanh chóng dâng lên. Nhà máy thủy điện chỉ còn cách xả lũ xuống hạ lưu. Đơn giản là không xả thì chứa vào đâu? Chẳng có cách gì đẩy ngược nước lũ trở lại thượng lưu hay đẩy ngược lên trời được. Trong đợt lũ ở miền Trung vừa qua có hồ thủy điện nào bị vỡ đâu, nên nói lũ chồng lên lũ là sai với thực tế, cũng như quy kết các nhà máy thủy điện gây ra lũ càng sai hơn. Các nhà máy điện chỉ xả tràn.
Tôi cũng rất đồng tình với bài viết của tác giả Phạm Huyền đăng trên Vef.vn đánh giá công tác điều tiết, xả lũ của các công trình thủy điện ở khu vực miền Trung. Tác giả này đã dẫn ra số liệu chứng minh cho thấy 16 hồ của thủy điện khu vực miền Trung trong thời gian vừa qua không gây lũ thêm cho hạ du mà còn góp phần cắt giảm đỉnh lũ. Xét theo tỷ lệ lưu lượng xả lớn nhất của hồ với lưu lượng lũ đến lớn nhất thì đóng góp lớn nhất là hồ Sông Hinh (Phú Yên) đã cắt giảm 87,9% đỉnh lũ xả về hạ du. Kế đến là hồ Vĩnh Sơn A (Bình Định) cắt giảm tới 70% lưu lượng đỉnh lũ về hạ du…Tác giả này cũng đưa ra rất nhiều chứng minh khác tương tự.
Ông Tạ Văn Luận- Giám đốc Công ty Thủy điện IaLy
Dẫn ra đây những ví dụ để thấy rằng, hầu hết các công trình thủy điện, đặc biệt là các công trình thủy điện lớn có vai trò rất to lớn, được xác định là công trình đa mục tiêu, không những sản xuất ra điện năng, đóng góp vào tiến trình CNH - HĐH đất nước; tích nước để tưới, phục vụ cho trồng trọt trong nông nghiệp vào mùa khô… mà còn cắt lũ trong mùa mưa.Vậy nên, nếu cho rằng việc các công trình thủy điện gây ra lũ quét, ngập lụt nhiều vùng, điều đó có hay không thì phải có cái nhìn khách quan, khoa học và thực tiễn. Rất nhiều vùng bị lũ và ngập nặng vừa rồi lại không hề có bóng dáng của một công trình thủy điện nào, chẳng hạn như Quy Nhơn (Bình Định), hoặc Quảng Ngãi…Trong đợt mưa lũ lớn gây ra ngập lụt nhiều vùng trong cả nước vừa qua, nguyên nhân chính theo tôi là độ che phủ của rừng đã bị suy giảm nghiêm trọng, rừng không còn khả năng giữ nước, giảm lũ và hệ quả của biến đổi khí hậu toàn cầu. Đơn giản như thế này, nguyên tắc cơ bản của quy trình điều tiết vận hành xả lũ hồ chứa theo quy trình được phê duyệt là khi lưu lượng nước lũ về hồ chưa đạt đến lưu lượng đỉnh lũ thì lưu lượng xả tràn phải nhỏ hơn lưu lượng về hồ. Lượng nước được giữ lại trong hồ là lượng nước cắt lũ. Khả năng cắt lũ tùy thuộc vào quy mô của hồ chứa cũng như mức nước đón lũ. Điều này thật bình thường, không có gì khó hiểu.
Nhưng thưa ông, việc xây dựng các công trình thủy điện thường đi kèm với việc nhiều diện tích rừng bị phá. Điều này gây ra hiện tượng sói mòn và cũng góp phần gây ra lũ quét?
Năm 2006 Chính phủ đã ban hành Nghị định 23/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng. Quy định là phải trồng lại rừng bằng diện tích rừng đã chuyển đổi sang mục đích khác. Đây là luật mà mọi tổ chức, cá nhân phải chấp hành. Tuy nhiên diện tích gọi là “chuyển đổi” khác như chặt phá rừng, đốt rừng làm nương, làm rẫy ngày càng gia tăng và chẳng có quy định nào… phải trồng lại rừng. Tôi cho đây mới là nguyên nhân chính rừng của nước ta ngày càng suy kiệt, độ che phủ của rừng ngày giảm thấp, cộng thêm biến đổi khí hậu toàn cầu; quy hoạch, quản lý thiếu khoa học, chặc chẽ làm cho lũ lụt ngày nặng nề hơn.
Về vấn đề nhiều diện tích rừng bị phá, gây sói mòn thì cần tái tạo rừng. Điều đó gần đây đã được quan tâm. Năm 2010, Chính phủ đã có Nghị định 99/2010/NĐ-CP về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, nhằm bảo về và phát triện rừng. Cứ mỗi kWh điện sản xuất từ thuỷ điện nộp 20 đồng phí để nhằm đầu tư trồng tái tạo rừng, quản lý và phát triển rừng bền vững. Đến năm 2011 thì quỹ này chính thức được thu. Như vậy, chỉ riêng Công ty Thủy điện IaLy, mỗi năm đã nộp vào quĩ này bình quân là trên 100 tỷ đồng. Cụ thể hơn, năm 2011 là 113 tỷ đồng, năm 2012 là 115 tỷ đồng. Năm 2013 có thể giảm chút ít vì sản lượng điện có thể thấp hơn. Số tiền này không nhỏ để có thể tái tạo rừng. Nếu được sử dụng có hiệu quả, kịp thời thì việc tái tạo rừng sẽ nhanh chóng được cải thiện.
Theo quy định thì đơn vị tiếp nhận nguồn vốn này có trách nhiệm thông báo cho đơn vị mua dịch vụ là Công ty Thủy điện Ialy biết về mục đích, nội dung sử dụng nguồn vốn, nhưng đến nay chúng tôi vẫn đang chờ.
Mới đây, đã có hơn 400 công trình thủy điện trong cả nước đã bị loại ra khỏi danh sách quy hoạch, một lý do chính là liên quan đến suy giảm diện tích rừng, ông suy nghĩ thế nào về vấn đề này?
Đây là vấn lớn phải xét đến lợi ích Quốc gia. Nếu ảnh hưởng lớn đến môi trường thì việc loại bỏ và xem xét lại là cần thiết.
Xin cảm ơn ông!