Việt Nam nhập siêu hơn 2 tỷ USD từ các nước ASEAN Các nước ASEAN học hỏi kinh nghiệm của Việt Nam trong thu hút FDI |
Với những lo ngại toàn cầu gia tăng về biến đổi khí hậu và hạn chế carbon, Đông Nam Á có cơ hội duy nhất để thúc đẩy nền kinh tế và dẫn đầu toàn cầu bằng cách xây dựng một mạng lưới điện carbon thấp trong khu vực.
Các nước ASEAN có thể kết hợp các nguồn năng lượng mặt trời rộng lớn với khả năng sản xuất tiên tiến để lưu trữ năng lượng pin và xe điện, khiến họ trở thành những ứng cử viên hàng đầu để dẫn đầu quá trình chuyển đổi toàn cầu sang năng lượng sạch. Sau Thỏa thuận Paris, nhiều nước ASEAN đã sửa đổi kế hoạch phát triển điện năng của mình để đưa vào các cam kết đầy tham vọng về khử carbon trong ngành điện.
Các nước ASEAN đã nhất trí chung để tạo ra ít nhất 23% điện năng từ các nguồn tái tạo vào năm 2025. Tiến độ đang diễn ra nhanh chóng - Việt Nam đã phê duyệt hơn 11 gigawatt (GW) cho các dự án gió mới và Thái Lan đang phát triển 2,7 GW năng lượng mặt trời nổi. Mặc dù đây là những bước đầu tiên quan trọng, nhưng vẫn chưa đủ để tối đa hóa những lợi ích tiềm năng của quá trình chuyển đổi năng lượng tái tạo.
Để đạt được sự khử carbon trong toàn bộ hệ thống năng lượng, các nước ASEAN cần phối hợp trong khu vực và xây dựng lòng tin cũng như đối thoại. Chiến lược Trung tâm năng lượng 4.0 mới của Thái Lan có tiềm năng mở rộng kết nối truyền tải khắp Đông Nam Á và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho thương mại điện carbon thấp giữa các quốc gia. Nhưng để cho phép một lưới điện ASEAN tích hợp hơn cũng như phát triển các công nghệ mới là điều cần thiết. Một nghiên cứu về khả năng sẵn sàng cho năng lượng tái tạo trên toàn khu vực nêu bật những thách thức và cơ hội đạt được việc tích hợp lưới điện năng lượng tái tạo giữa các quốc gia ASEAN.
Dự báo năng lượng tái tạo tập trung và phân tích dữ liệu là rất quan trọng để tích hợp điện mặt trời và điện gió ở quy mô lớn nhưng nhiều quốc gia thiếu dự báo cần thiết để đảm bảo vận hành lưới điện thông suốt. Cải thiện thị trường và hệ thống là cần thiết do khả năng điều động đa dạng từ Lào đến Singapore. Các quốc gia đang nhanh chóng mở rộng công suất - Việt Nam gần đây đã vượt qua Thái Lan, Philippines và Malaysia về tổng công suất lắp đặt năng lượng mặt trời và đạt mục tiêu 18,6 GW cho năm 2030 trước 10 năm so với kế hoạch.
Các khoản đầu tư phù hợp với các mục tiêu khử carbon này nhưng để đưa các công nghệ này vào hoạt động, cần phải có sự đầu tư phối hợp trong việc hỗ trợ các công nghệ như hệ thống lưu trữ, truyền tải, dự báo và tín dụng năng lượng. Một rào cản là thiếu các trung tâm nghiên cứu siêu máy tính có thể dự báo và tối ưu hóa các hệ thống điện mới. Các phương pháp tương tự mà Mỹ sử dụng tại Phòng thí nghiệm Năng lượng tái tạo quốc gia phải mất hàng tuần để tính toán ở Việt Nam. Đầu tư, đào tạo và chia sẻ kiến thức toàn cầu có thể thúc đẩy quá trình chuyển đổi này.
Phát triển một hệ thống tín chỉ để xác minh và xác nhận điện carbon thấp có thể giúp phân biệt giữa các nhà máy nhiệt điện than đe dọa môi trường, phát triển đập thủy điện và các nguồn điện carbon thấp hơn. Nó cũng có thể giúp thiết lập các mã và tiêu chuẩn lưới điện cho các quốc gia giúp tăng cường tiêu thụ điện tái tạo và giảm chi phí tích hợp. Các quốc gia có lưới điện đang phát triển nhưng thiếu công suất truyền tải quy mô lớn có thể giao dịch điện carbon thấp với các quốc gia có nhu cầu lớn hơn.
Một ví dụ là hiệp định thương mại điện gió gió mùa 600 MW giữa Lào và Việt Nam. Một hệ thống tín dụng phù hợp cũng có thể ngăn cản các dự án quy mô lớn như đập Pak Beng 912 MW, một dự án đe dọa môi trường và ngăn cản việc sản xuất điện với chi phí thấp nhất từ năng lượng mặt trời và gió tham gia vào các hiệp định thương mại điện được đàm phán trước. Hệ thống này có thể dành cho các dự án giảm lượng khí thải carbon. Ví dụ, thỏa thuận thương mại điện 100 MW của Lào - Thái Lan - Malaysia - Singapore được thiết lập để bắt đầu vào năm 2022 thể hiện một mô hình có thể mở rộng để phát triển lưới điện toàn ASEAN hơn nữa, nhưng chỉ khi mức giảm carbon của nó được đo lường và xác nhận.
Nếu hydro xanh trở thành một phần của chiến lược loại bỏ nhiên liệu hóa thạch ở Đông Nam Á, việc xác minh cũng sẽ rất quan trọng để giám sát phát thải khí nhà kính liên quan đến sản xuất hydro xanh. Điều này có thể xảy ra dưới hình thức đánh giá vòng đời được tiêu chuẩn hóa và các quy trình chứng nhận tương tự như các quy trình được sử dụng để chứng nhận nhiên liệu sinh học về mức độ tương đương phát thải khí nhà kính của chúng. Hydro xanh có thể giúp đẩy nhanh quá trình loại bỏ khí tự nhiên, được nhiều nước ASEAN nhập khẩu.
Các quốc gia trong khu vực có thể sử dụng điện để xây dựng các công nghệ điện phân mới phục vụ nhu cầu năng lượng công nghiệp trong khi ngành điện của họ giảm lượng carbon. Điều này có thể cho phép sản xuất năng lượng nội địa hóa nhiều hơn trong khi xây dựng thêm cơ sở hạ tầng năng lượng tái tạo. Trong khi việc đầu tư cho các nhà máy điện than mới ở Đông Nam Á vẫn chưa có khả năng xảy ra, tình hình kinh tế hiện nay đang thúc đẩy các nhà máy nhiệt điện than thay thế các nhà máy điện tái tạo trên lưới điện.
Để hấp thụ năng lượng tái tạo nhiều hơn, cần có quy hoạch hệ thống điện dựa trên thị trường hơn. Hạn chế sản lượng phát điện từ than hoặc đẩy nhanh việc ngừng sử dụng than sớm có thể thúc đẩy các mục tiêu về điện carbon thấp trên toàn khu vực nhưng điều này vẫn chưa được khám phá một cách nghiêm túc.
Từ quan điểm lập kế hoạch quốc tế, hợp tác là chìa khóa để đạt được những mục tiêu này. Do đó, cần có sự phối hợp giữa các ngành để tránh các thảm họa sinh thái do phụ thuộc vào thủy điện và hậu quả là mất nguồn nước. Nâng cao năng lực lưu trữ năng lượng pin và sử dụng xe điện cũng có thể dẫn đến tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm. Sự phối hợp về lưu trữ năng lượng và truyền tải hệ thống điện sẽ là điều cần thiết để phát triển mạng lưới điện carbon thấp trên khắp Đông Nam Á.