Cần có cơ chế ưu đãi khác biệt
Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XV, ngày 21/11, Quốc hội tiến hành thảo luận ở hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ; dự án Luật Công nghệ cao (sửa đổi).

Đại biểu Lã Thanh Tân - đoàn TP. Hải Phòng
Về dự án Luật Công nghệ cao (sửa đổi), đại biểu Lã Thanh Tân - đoàn Hải Phòng cho biết, khoản 1 Điều 12 quy định về 3 loại hình nghiên cứu phát triển công nghệ cao, công nghệ chiến lược, bao gồm: Nghiên cứu sáng tạo công nghệ chiến lược mới, nghiên cứu làm chủ và cải tiến công nghệ, nghiên cứu ứng dụng và thử nghiệm công nghệ chiến lược.
Tuy nhiên, tại điểm b khoản 1 Điều 14 của dự thảo lại chỉ quy định "nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện tăng cường đầu tư các hoạt động nghiên cứu phát triển để đổi mới sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm công nghệ chiến lược", thực tế khâu ứng dụng và thử nghiệm các sản phẩm trên cũng rất cần được sự quan tâm đầu tư.
Vì vậy, đại biểu đề nghị sửa lại thành "tăng cường đầu tư các hoạt động nghiên cứu phát triển để đổi mới, ứng dụng và thử nghiệm sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm công nghệ chiến lược", để đáp ứng nhu cầu của thực tiễn và đảm bảo tính thống nhất với khung quy định tại khoản 1 Điều 12.
Điều 15 dự thảo luật quy định về doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp công nghệ chiến lược và các chính sách ưu đãi, hỗ trợ với 2 loại hình doanh nghiệp này. Song, đề nghị xem xét bổ sung thêm các nội dung quy định 2 loại hình doanh nghiệp trên có được coi là một loại hình doanh nghiệp khoa học, công nghệ ở trình độ cao không và nếu có cần phải có ưu đãi.
Đồng thời, đối với các loại hình doanh nghiệp quy định tại Điều 15 có gì khác so với các chính sách đối với doanh nghiệp khoa học, công nghệ và các doanh nghiệp này có phải đăng ký hoạt động hay không. Vì vậy, ông Tân đề nghị, cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát thêm với các luật liên quan để đảm bảo tính thống nhất cũng như tính đặc thù riêng của chính sách ưu đãi đối với từng loại hình doanh nghiệp trên.
Tại Điều 18, về thúc đẩy chuyển giao và thương mại hóa công nghệ cao và sản phẩm công nghệ cao, đại biểu đề nghị xem xét lại sự thống nhất giữa tên điều và nội dung của điều này gồm 2 nhóm đối tượng là thương mại hóa công nghệ cao và thương mại hóa sản phẩm công nghệ cao.
Đại biểu cũng nhất trí bổ sung quy định về đô thị công nghệ cao tại Điều 23 dự thảo luật vì quy định này phù hợp với xu thế phát triển và tầm quan trọng của loại hình đô thị này. Tuy nhiên, cần làm rõ mức phân loại đô thị mới đối với loại hình đô thị này, làm rõ mô hình quản lý việc cấp chính quyền quản lý loại đô thị này là cấp nào, có được ban hành cơ chế chính sách và khung pháp lý không...

Đại biểu Trần Anh Tuấn - đoàn TP. Hồ Chí Minh
Phát biểu tại hội trường, đại biểu Trần Anh Tuấn - đoàn TP Hồ Chí Minh cho rằng, trong dự thảo luật sửa đổi phân biệt rất rõ sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm công nghệ chiến lược; công nghệ cao và công nghệ chiến lược như thế nào. Tuy nhiên, trong chính sách ưu đãi, lại không có ưu đãi riêng.
Theo đại biểu, vì sản phẩm chiến lược được tạo ra bởi công nghệ chiến lược, vốn bao trùm và có tính rủi ro cao hơn, mang tính chiến lược và dài hạn hơn so với công nghệ cao thông thường nên cần có sự khác biệt trong chính sách ưu đãi.
Cùng với đó, đại biểu đề xuất cần có cơ chế ưu đãi khác biệt, rõ ràng hơn cho sản phẩm chiến lược và việc sử dụng công nghệ chiến lược so với công nghệ cao và sản phẩm công nghệ cao thông thường.
Đối với hoạt động sản xuất sản phẩm chiến lược bằng công nghệ chiến lược, đại biểu đề xuất phải có một cơ chế chia sẻ rủi ro và sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn từ ngân sách nhà nước. Việc quy định ngân sách bỏ ra lúc nào cũng phải thành công hoặc thu lại đủ phần đã chi là điều rất khó thực hiện và không khuyến khích người làm nghiên cứu và phát triển (R&D).
Trụ cột chiến lược về kinh tế
Tại phiên thảo luận, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng cảm ơn các ý kiến của các đại biểu Quốc hội nhằm hoàn thiện dự thảo Luật Công nghệ cao và Luật Chuyển giao công nghệ.

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng
Theo Bộ trưởng, Luật Công nghệ cao xác định các loại công nghệ và sản phẩm công nghệ cần được ưu tiên phát triển. Còn Luật Chuyển giao công nghệ là điều chỉnh hoạt động chuyển giao, thương mại hóa và quản trị công nghệ, bao gồm cả công nghệ cao.
Hai Luật có mối quan hệ phân vai rõ ràng. Luật Công nghệ cao là luật xác định đối tượng để có các chính sách ưu tiên phát triển. Luật Chuyển giao công nghệ là luật điều chỉnh hoạt động. Mục tiêu sửa đổi 2 luật lần này là giúp Việt Nam thực sự có công nghệ cao và tạo ra thị trường công nghệ.
Về Luật Công nghệ cao, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nêu rõ, công nghệ cao không chỉ là lĩnh vực ưu đãi đầu tư mà còn là trụ cột chiến lược về kinh tế, quốc phòng, an ninh và năng lực cạnh tranh quốc gia, công nghệ cao còn là chủ quyền quốc gia. Việt Nam đã công bố danh mục 11 nhóm công nghệ chiến lược phải làm chủ. Đây cũng là tuyên ngôn về tự chủ, tự cường của Việt Nam về công nghệ.
Luật Công nghệ cao (sửa đổi) lần này nhằm thể chế hóa các quan điểm trên; phân ra các loại công nghệ cao, công nghệ chiến lược, công nghệ lõi để quản lý phát triển. "Công nghệ cao là để phát triển đất nước, công nghệ chiến lược là ưu tiên quốc gia để tự chủ, cần có chính sách đặc biệt. Công nghệ lõi là cái chúng ta phải làm và giữ lấy" - Bộ trưởng nói.
Người đứng đầu ngành khoa học và công nghệ cũng nhấn mạnh, sửa Luật Công nghệ cao theo hướng bổ sung 4 mũi đột phá, thể hiện tư tưởng mới của Đảng ta về khoa học, công nghệ. Một là, thêm khái niệm công nghệ chiến lược. Chúng tôi sẽ quan tâm xử lý tốt mối quan hệ giữa công nghệ cao và công nghệ chiến lược.
Hai là, bổ sung các chính sách ưu đãi nhằm tăng tỷ lệ nội địa hóa, tăng hàm lượng công nghệ của Việt Nam. Chuyển từ gia công, lắp ráp sang nghiên cứu, thiết kế và sáng tạo sản phẩm công nghệ cao tại Việt Nam.
Ba là, hướng vào các mục tiêu và chiến lược quốc gia như tăng trưởng 2 con số, năng suất lao động, tự chủ công nghệ.
Bốn là, hình thành khu đô thị công nghệ cao là nơi sống, làm việc, sáng tạo trong môi trường công nghệ cao.
Về một số nội dung cụ thể, Bộ trưởng cho hay, các cơ chế, chính sách đối với công nghệ cao tại luật hiện hành sẽ tiếp tục được duy trì và tăng thêm các ưu đãi nếu FDI tăng tỷ lệ nội địa hóa chuyển giao công nghệ có hoạt động nghiên cứu phát triển tại Việt Nam.
Luật xây dựng các chính sách đặc biệt để thúc đẩy mạnh mẽ tự chủ công nghệ chiến lược như giao nhiệm vụ trực tiếp, cơ chế đặc thù trong giải mã, mua bí quyết công nghệ, thiết lập khu thí nghiệm đặc biệt riêng cho công nghệ chiến lược và mua sắm đặc biệt công nghệ chiến lược, sản phẩm chiến lược.
Về Luật Chuyển giao công nghệ, Bộ trưởng chia sẻ, mục tiêu chính của sửa đổi lần này là hình thành thị trường công nghệ một cách thực chất, chuyển giao công nghệ trở thành cơ chế lan tỏa và thương mại hóa nhằm đưa công nghệ vào sản xuất nhanh hơn và mạnh hơn.
Chuyển từ kiểm soát chuyển giao sang thúc đẩy đổi mới sáng tạo, giảm thủ tục hành chính, chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, tạo cơ chế thông thoáng, phát triển các tổ chức trung gian để doanh nghiệp nhanh chóng nhập công nghệ mới, làm chủ và đổi mới công nghệ. Chuyển từ tư duy công nghệ là máy móc, thiết bị sang công nghệ là tri thức, dữ liệu, thuật toán, phần mềm, trí tuệ nhân tạo và coi tất cả đều là đối tượng chuyển giao như nhau.
Luật Chuyển giao công nghệ mở rộng các đối tượng công nghệ mới, hình thức chuyển giao công nghệ mới. Ngoài quyền về sở hữu và sử dụng, mở rộng thêm các công nghệ phái sinh, công nghệ đồng phát triển, chuyển giao công nghệ tạm thời và chuyển giao theo kết quả, cho phép sandbox về chuyển giao công nghệ. Bổ sung các đối tượng công nghệ mới như: Thiết kế, thuật toán, mô hình, dữ liệu, AI và có cách tiếp cận mới đối với các đối tượng công nghệ vô hình.
Để thúc đẩy mạnh mẽ thị trường khoa học công nghệ, Luật Chuyển giao công nghệ quy định thêm về phát triển các tổ chức trung gian, môi giới, tư vấn, đánh giá công nghệ, thẩm định giá, kết nối cung cầu vốn là những điều mà chúng ta đang yếu liên quan đến các tổ chức trung gian. Tổ chức các sàn giao dịch và hỗ trợ ngân sách cho đổi mới công nghệ.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, cả 2 Luật đều được sửa đổi để tăng cường năng lực quản lý nhà nước, thực hiện chuyển đổi số toàn diện để giám sát, thống kê, đo lường, công bố công khai hiệu quả hoạt động công nghệ cao và chuyển giao công nghệ nhằm đảm bảo tính linh hoạt, thích ứng nhanh với sự thay đổi của công nghệ.
Nhà nước luôn giữ quyền hậu kiểm công nghệ với chế tài mạnh để tránh việc nâng khống giá công nghệ, đưa công nghệ lạc hậu, gây hại môi trường vào Việt Nam. Đồng thời, nhà nước quan tâm đồng bộ từ nghiên cứu, phát triển, thử nghiệm và ứng dụng ở Việt Nam.







