Nông dân toàn cầu đối mặt với cú sốc nguồn cung thắt chặt và giá phân bón tăng cao Giá phân bón tăng cao và kịch bản cho Việt Nam |
Đề xuất thuế xuất khẩu 5% đối với mặt hàng phân bón thuộc nhóm 31.02, 31.03, 31.04, 31.05
Bộ Tài chính đang lấy ý kiến dự thảo Nghị định biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan.
Tại dự thảo, Bộ Tài chính cho biết, trong thời gian gần đây, cơ quan này nhận được kiến nghị của một số cơ quan đề nghị rà soát, xem xét chính sách thuế xuất khẩu đối với mặt hàng phân bón trong bối cảnh giá cả mặt hàng phân bón tăng cao.
Từ 15/10/2021, Tổng cục Hải quan Trung Quốc (CGAC) đã đưa ra danh sách 29 loại phân bón xuất khẩu sẽ chịu sự kiểm soát chặt chẽ, gồm Urea, DAP, MAP, NPK, NP/NPS, MOP, SOP, ammonium chloride và ammonium nitrate... |
Do đó, để góp phần hạ giá phân bón trong nước, ổn định nguồn cung, đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi, đảm bảo quản lý chặt chẽ, tránh gian lận trong quá trình thực hiện, căn cứ khung thuế suất quy định tại Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13, Bộ Tài chính trình Chính phủ quy định thống nhất một mức thuế suất thuế xuất khẩu 5% đối với mặt hàng phân bón thuộc nhóm 31.02, 31.03, 31.04, 31.05 tại biểu thuế xuất khẩu, không phân biệt theo tỷ lệ tài nguyên khoáng sản trong sản phẩm phân bón.
Theo đó, đối với loại phân bón có giá trị tài nguyên khoáng sản cộng chi phí năng lượng dưới 51% giá thành sản phẩm sẽ có mức thuế suất thuế xuất khẩu tăng từ 0% lên 5%. Đối với mặt hàng phân bón có giá trị tài nguyên khoáng sản cộng chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên có thuế suất thuế xuất khẩu 5% như hiện hành.
Còn riêng đối với phân bón thuộc nhóm 31.01 là phân bón hữu cơ, không sử dụng tài nguyên khoáng sản, Bộ Tài chính trình Chính phủ giữ mức thuế suất thuế xuất khẩu là 0% như hiện hành.
Đồng thời, do mức thuế suất thuế xuất khẩu mặt hàng phân bón được quy định cụ thể tại Biểu thuế xuất khẩu, không phân biệt theo tỷ lệ tài nguyên khoáng sản được sử dụng như hiện hành, Bộ Tài chính trình Chính phủ bãi bỏ khoản 4 Điều 4 Nghị định số 122/2016/NĐ-CP.
Ổn định nguồn phân bón trong nước
Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (Vinachem) cho biết, hiện nay diễn biến tình hình thị trường phân bón đang có nhiều biến động, giá các loại phân bón thị trường thế giới và thị trường trong nước liên tục tăng cao, chủ yếu do hầu hết nguyên liệu dùng cho sản xuất phân bón trong nước phải nhập khẩu và các loại nguyên liệu này đã tăng giá mạnh trong thời gian qua. Tình trạng khan hiếm container rỗng và thiếu nguyên liệu phục vụ cho sản xuất (như thiếu quặng apatit tuyển để sản xuất phân bón NP) cũng góp phần đẩy giá mặt hàng phân bón tăng cao.
Tính đến nay, tổng công suất của các cơ sở sản xuất phân bón trong nước là 29,25 triệu tấn/năm. Trong đó, công suất sản xuất phân bón vô cơ là 25,21 triệu tấn/năm, sản xuất phân bón hữu cơ là 4,04 triệu tấn/năm.
Trong trường hợp các nhà máy sản xuất phân bón hoạt động thuận lợi theo công suất thiết kế là có thể đáp ứng nhu cầu phân đạm và phân lân trong nước. Đối với phân kali, nước ta không có mỏ muối kali nên bắt buộc phải dựa vào nguồn cung từ nhập khẩu.
Năm 2021, Việt Nam đã nhập khẩu 4,54 triệu tấn phân bón, tăng 19,4% về khối lượng, tăng 52,6% về kim ngạch và tăng 27,8% về giá so với năm 2020. Trung Quốc là thị trường chủ đạo cung cấp phân bón các loại cho Việt Nam, chiếm 44,5% trong tổng lượng và chiếm 42% trong tổng kim ngạch nhập khẩu phân bón của cả nước, đạt 2,02 triệu tấn.
Về xuất khẩu, năm 2021, Việt Nam cũng đã xuất khẩu 1,35 tấn phân bón, tăng 16,4% về khối lượng, tăng 64,2% về kim ngạch và giá tăng 41,2% so với năm 2020. Campuchia là thị trường tiêu thụ phân bón của Việt Nam nhiều nhất, chiếm tới 40,2% trong tổng lượng và chiếm 37,4% trong tổng kim ngạch xuất khẩu phân bón của cả nước.
Thời gian gần đây, giá cả các nguyên liệu sản xuất phân bón trên thị trường thế giới liên tục tăng mạnh do tình hình căng thẳng giữa Nga và Ukraina, cùng với diễn biến dịch COVID-19 làm đứt gãy chuối cung ứng trong khi nhu cầu sử dụng ở mức cao.
Hai quốc gia có lượng xuất khẩu phân bón lớn nhất thế giới là Nga và Trung Quốc cũng đã hạn chế việc xuất khẩu phân bón để giữ lại nguồn cung cho thị trường nội địa. Cụ thể, từ 15/10/2021, Tổng cục Hải quan Trung Quốc (CGAC) đã liệt kê danh mục 29 loại mặt hàng phân bón xuất khẩu sẽ nằm trong phạm vi bị kiểm soát, theo dõi chặt chẽ. Trong đó có phân urê, DAP, MAP, NPK, NP/NPS, MOP, SOP, amoni clorua và amoni nitrat… Cũng từ 17/11/2021, Nga hạn chế xuất khẩu phân bón nitơ và phân bón tổng hợp chứa nitơ trong sáu tháng để cố gắng kiềm chế sự tăng giá trong bối cảnh giá khí đốt tăng cao. Hạn ngạch xuất khẩu phân đạm dự kiến là 5,9 triệu tấn; Hạn ngạch đối với phân bón chứa Nitơ ở mức 5,35 triệu tấn. Hạn ngạch dự kiến sẽ được áp dụng từ ngày 1/12/2021 đến ngày 31/5/2022.
Theo đánh giá của Bộ Tài chính, nếu thực hiện phương án như đề xuất sẽ góp phần giữ lại nguồn phân bón cho sử dụng trong nước, nhất là trong bối cảnh giá phân bón đang có xu hướng tăng cao, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa nhà nước và doanh nghiệp. Bên cạnh đó cũng sẽ giảm bớt thủ tục hành chính do việc doanh nghiệp và cơ quan hải quan phải xác định tỷ lệ tài nguyên khoáng sản chiếm trong sản phẩm như quy định hiện hành, thống nhất về thuế xuất khẩu với các doanh nghiệp.
Bộ Tài chính đưa ra quan điểm, thực hiện theo phương án này sẽ góp phần tăng thu ngân sách từ phân bón xuất khẩu. Tuy nhiên, việc này cũng sẽ ảnh hưởng đến các doanh nghiệp sản xuất phân bón. Số tăng thu từ thuế xuất khẩu này có thể giảm xuống nếu như lượng phân bón sản xuất ra được sử dụng tiêu thụ nội địa.