Hoàn thiện khung pháp lý cho công nghiệp môi trường
Trong bối cảnh thế giới bước vào giai đoạn tăng tốc chuyển đổi xanh và phát triển bền vững, công nghiệp môi trường đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần trực tiếp vào bảo vệ tài nguyên, giảm phát thải và phục hồi hệ sinh thái. Tại Việt Nam, Luật Bảo vệ môi trường 2020 và Nghị định số 08/2022/NĐ-CP đã tạo nền tảng pháp lý ban đầu, song theo Bộ Công Thương, vẫn còn những khoảng trống lớn cần được lấp đầy để ngành công nghiệp môi trường phát triển đồng bộ, gắn kết chặt chẽ với các công trình xử lý và tái chế chất thải.

Hồ chứa xỉ của Công ty Nhiệt điện Duyên Hải. Ảnh: Thu Hường
Hiện nay, quy định pháp luật mới tập trung vào công nghệ sản xuất, chế tạo thiết bị và sản phẩm phục vụ bảo vệ môi trường, nhưng chưa bao quát đầy đủ các công nghệ xử lý chất thải, công nghệ tái chế, sử dụng hiệu quả tài nguyên, những yếu tố then chốt để giải quyết các vấn đề ô nhiễm nghiêm trọng. Bên cạnh đó, chưa có bộ, ngành nào được giao nhiệm vụ quản lý, phát triển các công trình, nhà máy xử lý chất thải ngoài lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật đô thị do Bộ Xây dựng phụ trách.
Để khắc phục tình trạng này, Bộ Công Thương kiến nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường theo hướng định nghĩa rõ “công nghiệp môi trường” là ngành kinh tế cung cấp công nghệ, thiết bị, dịch vụ và sản phẩm phục vụ yêu cầu bảo vệ môi trường; đồng thời ban hành chính sách hỗ trợ tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng, nâng cấp hạ tầng xử lý, tái chế chất thải, hình thành các khu xử lý tập trung.
Điều này sẽ giúp gắn kết phát triển ngành công nghiệp môi trường với mạng lưới công trình, nhà máy xử lý chất thải, tạo chuỗi giá trị khép kín từ công nghệ, thiết bị, dịch vụ đến vận hành thực tế.
Bộ Công Thương cho biết, theo Nghị định số 08/2022/NĐ-CP, “công nghệ công nghiệp môi trường” hiện chỉ được hiểu là công nghệ sản xuất, chế tạo thiết bị và sản phẩm thuộc ngành công nghiệp môi trường (nhóm 12, Phụ lục XXXI). Tuy nhiên, các công nghệ xử lý chất thải, tái chế chất thải, sử dụng hiệu quả tài nguyên, vốn cần gắn liền với thiết bị và được ưu tiên phát triển để giải quyết các vấn đề môi trường cấp bách, ô nhiễm nghiêm trọng lại không được xếp vào phạm vi ngành công nghiệp môi trường hay dịch vụ môi trường. Theo đó dẫn tới việc chưa có bộ, ngành nào được giao nhiệm vụ phát triển và quản lý các công nghệ này, tạo ra khoảng trống đáng kể về chính sách.
Nước thải sản xuất sau xử lý được Nhiệt điện Cao Ngạn tái sử dụng cho hồ điều hòa, tạo cảnh quan môi trường tại Nhà máy. Ảnh: Quang Huy
Cùng với đó, theo quy định hiện hành của Luật Bảo vệ môi trường 2020 và Nghị định số 08/2022/NĐ-CP, phát triển công nghiệp môi trường mới dừng ở việc phát triển thiết bị, sản phẩm phục vụ bảo vệ môi trường. Trong khi đó, để xử lý chất thải và khắc phục ô nhiễm, công nghệ, thiết bị và sản phẩm của ngành phải được ứng dụng trong các công trình, nhà máy, phân xưởng xử lý chất thải.
Nói cách khác, ngành công nghiệp môi trường cần gắn kết với hệ thống công trình và dịch vụ xử lý chất thải. Tuy nhiên, pháp luật hiện chưa quy định cụ thể, cũng chưa giao cơ quan quản lý nhà nước phụ trách đối với các công trình, nhà máy, phân xưởng xử lý chất thải (ngoại trừ Bộ Xây dựng được giao quản lý hạ tầng kỹ thuật thu gom, thoát nước thải đô thị, khu dân cư theo Điều 86 Luật Bảo vệ môi trường 2020). Đây tiếp tục là một khoảng trống trong hệ thống chính sách.
Bộ Công Thương kiến nghị Quốc hội sửa Luật Bảo vệ môi trường 2020, quy định rõ công nghiệp môi trường là ngành kinh tế cung cấp công nghệ, thiết bị, dịch vụ và sản phẩm phục vụ bảo vệ môi trường; Nhà nước có chính sách hỗ trợ phát triển ngành, đầu tư hạ tầng xử lý – tái chế, hình thành các khu xử lý tập trung, gắn phát triển công nghiệp môi trường với công trình, nhà máy xử lý chất thải.
Đồng thời, kiến nghị Chính phủ sửa Nghị định số 08/2022/NĐ-CP, bổ sung vào Phụ lục XXXI mục 12 các công nghệ xử lý, tái chế, quan trắc, giám sát, sử dụng bền vững tài nguyên và phục hồi môi trường, bảo đảm công nghệ xử lý gắn với thiết bị. Cùng với đó, bổ sung quy định quản lý, phát triển công trình, nhà máy xử lý, tái chế song hành với phát triển công nghệ, thiết bị và dịch vụ ngành.
Trên cơ sở đó, Bộ sẽ đề xuất Thủ tướng sửa Quyết định số 980/QĐ-TTg để bổ sung danh mục công nghệ, thiết bị ngành công nghiệp môi trường, trong đó ưu tiên các công nghệ xử lý và tái chế chất thải gắn liền với thiết bị xử lý.
Định danh và phát triển ngành công nghiệp tái chế
Một khoảng trống chính sách khác được Bộ Công Thương chỉ ra là Luật Bảo vệ môi trường 2020 chưa có định nghĩa “công nghiệp tái chế” và chưa giao cơ quan chịu trách nhiệm phát triển ngành này. Trong khi đó, nhu cầu tái chế đang tăng nhanh cả ở quy mô trong nước và quốc tế, đặc biệt ở các ngành thép, giấy, nhựa và dệt may xuất khẩu, những lĩnh vực chịu yêu cầu nghiêm ngặt về tỷ lệ nguyên liệu tái chế.

Công trình chống sạt lở tại các khu vực hoàn nguyên sau khai thác than ở Cao Sơn. Ảnh: Thu Hường
Việc thiếu cơ chế quản lý đồng bộ khiến nhiều nguồn chất thải, phế liệu trong nước như thiết bị điện tử, pin điện, sản phẩm thải bỏ từ xe điện, ngành hóa chất, khai khoáng, luyện kim… chưa được khai thác hiệu quả để tái chế thành sản phẩm mới. Ngay cả với tro, xỉ, thạch cao nguồn nguyên liệu tiềm năng cho sản xuất vật liệu xây dựng, vẫn tồn tại khó khăn về tiêu thụ. Dù hầu hết đã đạt chuẩn kỹ thuật, nhiều nhà máy nhiệt điện, hóa chất, phân bón vẫn tồn kho lớn do vị trí xa khu vực tiêu thụ, chi phí vận chuyển cao và thói quen sử dụng vật liệu truyền thống ở một số địa phương.
Bộ Công Thương đề xuất Quốc hội bổ sung định nghĩa “công nghiệp tái chế” vào Luật bảo vệ môi trường, giao rõ trách nhiệm quản lý, đồng thời hoàn thiện tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cho cả nguyên liệu đầu vào và sản phẩm đầu ra, đáp ứng yêu cầu môi trường, an toàn và sức khỏe cộng đồng.
Riêng với tro, xỉ, thạch cao, Bộ kiến nghị Thủ tướng chỉ đạo các địa phương có nhà máy tồn kho lớn ưu tiên sử dụng trong các công trình xây dựng vốn ngân sách; đồng thời các nhà máy cần xem xét cơ chế giá, hỗ trợ chi phí vận chuyển để nâng cao sức cạnh tranh.
Mở đường cho công nghệ xanh và kinh tế tuần hoàn
Những đề xuất sửa đổi Luật Bảo vệ môi trường 2020 của Bộ Công Thương không chỉ nhằm khắc phục bất cập pháp lý, mà còn mở đường cho công nghệ xanh, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong xu thế hội nhập xanh toàn cầu. Khi hành lang pháp lý được hoàn thiện, ngành công nghiệp môi trường và công nghiệp tái chế sẽ có điều kiện tiếp cận nguồn lực, công nghệ tiên tiến, thu hút đầu tư, tạo ra các mô hình sản xuất, tiêu dùng bền vững.

Mô hình ngân hàng rác của Xi măng Quảng Ninh phục vụ làm nhiên liệu thay thế cho lò nung clinker. Ảnh: Thu Hường
Hơn nữa, việc gắn kết phát triển công nghệ, thiết bị với hạ tầng xử lý chất thải sẽ hình thành chuỗi giá trị trọn vẹn, từ nghiên cứu, chế tạo, sản xuất đến vận hành và tái chế. Điều này không chỉ góp phần giảm thiểu ô nhiễm, tiết kiệm tài nguyên, mà còn tạo công ăn việc làm, phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
Trong bối cảnh Việt Nam cam kết mạnh mẽ tại COP26 về đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, sửa đổi Luật Bảo vệ môi trường để khắc phục khoảng trống và trao quyền chủ động cho các ngành mũi nhọn như công nghiệp môi trường, công nghiệp tái chế là yêu cầu cấp thiết.
Đây sẽ là bước đi chiến lược, tạo nền móng cho một nền kinh tế xanh, tuần hoàn, hiện đại và hội nhập sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.