Mưa to, gió lớn bất thường và lũ lụt đang ảnh hưởng đến Ấn Độ và các nước Nam Á lân cận, cũng như Trung Quốc và Nhật Bản. Điều này đã gây ra sự gián đoạn lớn, di dời, thiệt hại về nhân mạng, và một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của các dịch vụ khí tượng thủy văn quốc gia trong việc bảo vệ an toàn công cộng. Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) nhận định, những thách thức do mưa và lũ lụt tàn phá ở châu Á cùng với đại dịch Covid-19 đang trở nên phức tạp. Mặc dù sự chú ý của toàn cầu tập trung vào đại dịch, nhưng điều này không khiến thế giới phân tâm khỏi nhu cầu tiếp tục đầu tư vào các hệ thống cảnh báo sớm đa nguy cơ để tăng cường khả năng phục hồi. Điều này đặc biệt đúng khi biến đổi khí hậu đang làm tăng nguy cơ xảy ra hiện tượng mưa lớn, lũ lụt và ngập lụt ven biển.
Biến đổi khí hậu tăng nguy cơ lũ lụt |
Kể từ tháng 6 năm nay, lượng mưa cực lớn đã dẫn đến lũ lụt nhiều nơi ở Đông, Đông Nam và Nam Á. Tại Nhật Bản, Trung Quốc, Indonesia, Hàn Quốc, Nepal, Pakistan, Mông Cổ và Ấn Độ, hàng triệu người đã phải di dời và hàng trăm người thiệt mạng. Tác động kinh tế ở châu Á lớn hơn bất kỳ nơi nào khác. Một báo cáo của Viện Nghiên cứu Toàn cầu McKinsey vào tháng 8 nêu bật rủi ro, đến năm 2050, 75% nguồn vốn toàn cầu có nguy cơ ngập lụt sẽ nằm ở châu Á. Tiểu lục địa Ấn Độ và các vùng lãnh thổ ven biển Đông Nam Á sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất.
Dữ liệu khác cũng đưa ra bức tranh tương tự. Một nghiên cứu trên tạp chí khoa học Nature Communications vào năm ngoái ước tính, 300 triệu người sống ở những nơi có thể xảy ra lũ lụt do khí hậu gây ra vào năm 2050, với hầu hết những người dễ bị tổn thương ở các nước châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh và Việt Nam. Một nghiên cứu vào tháng 7 trên tạp chí Scientific Reports cho thấy, trong khi nguy cơ lũ lụt đang gia tăng trên toàn cầu, mật độ dân số và mức độ ưu thế của các cộng đồng ven biển ở châu Á có nghĩa là phần lớn dân số có nguy cơ cao trên toàn cầu trong 80 năm tới sẽ ở lục địa này. Chỉ riêng ở Trung Quốc, 2,7 triệu người đã phải sơ tán và ước tính có khoảng 63 triệu người bị ảnh hưởng vào năm 2020. Tổng cộng 53 con sông hiện đang ở hoặc gần mực nước cao lịch sử; các đập ở lưu vực sông Dương Tử gần hoặc cao hơn dung tích, gây ra lũ lụt tồi tệ nhất ở miền nam Trung Quốc ít nhất kể từ năm 1961. Trong khi đó, ở Nam Á, 17 triệu người đã bị ảnh hưởng trong năm nay và có khả năng sẽ trở nên tồi tệ hơn do lượng mưa lớn được dự báo ở nhiều khu vực châu Á trong mùa này. Nhật Bản, không xa lạ với các thảm họa thiên nhiên, đã chứng kiến thời tiết ngày càng nguy hiểm. Trận mưa kỷ lục ở tỉnh Kumamoto trên đảo Kyushu đã làm chết ít nhất 65 người trong tháng 7. Các khu vực của tỉnh Chiba ở phía đông Tokyo vẫn đang quay cuồng với một cơn bão lớn vào tháng 9 năm ngoái, làm hư hại hơn 70.000 ngôi nhà và đánh sập điện, dẫn đến mất điện nhiều ngày, ảnh hưởng đến hàng chục nghìn người.
Khoa học khí hậu và mô hình hóa đã được cải thiện để những nhà khoa học ngày càng tự tin có thể ước tính mức độ ảnh hưởng của các sự kiện thời tiết cụ thể, hoặc bị ảnh hưởng, thay đổi bởi tác động của biến đổi khí hậu. Ví dụ, khi cơn bão Harvey làm ngập lụt các vùng Texas ở Mỹ vào năm 2017, các nhà khoa học có thể tính toán lượng mưa cao hơn ít nhất từ 15 - 19% do biến đổi khí hậu. Điều này cũng làm tăng khả năng xảy ra các cơn bão như vậy lên gấp ba lần. Mặc dù nguy cơ lượng mưa cực đoan có thể tăng lên, nhưng không có nghĩa năm nào cũng có lũ lụt. Hiện nay, hầu hết sự chú ý của toàn cầu về khí hậu tập trung vào giảm nhẹ, cắt giảm phát thải khí nhà kính, để giảm tác động lâu dài của biến đổi khí hậu. Châu Á chiếm phần lớn tổng lượng khí thải carbon toàn cầu, một tỷ lệ đang gia tăng. Khi nói đến giảm nhẹ toàn cầu, châu Á có vị trí độc nhất vì tỷ trọng của khu vực này trong nền kinh tế toàn cầu và các khoản đầu tư vào lĩnh vực năng lượng.
Nhưng đối với lũ lụt, việc giảm nhẹ trong ngắn hạn, trung hạn có ít tác động vì khả năng lượng khí thải trong quá khứ sẽ dẫn đến lượng mưa dữ dội liên quan đến biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng. Cả hai đều làm cho lũ lụt dễ xảy ra hơn. Ngoài ra còn có các yếu tố phi khí hậu, chẳng hạn như di cư và phát triển, ảnh hưởng đến tác động kinh tế - xã hội của lũ lụt. Sự bùng nổ kinh tế kéo dài hàng thập kỷ của châu Á đã thúc đẩy sự di cư. Tổng cộng, các thành phố trong khu vực đã có thêm 200 triệu cư dân trong 10 năm kể từ năm 2000. Trong khi sự chuyển động đó rõ rệt nhất ở Trung Quốc, thì Pakistan, Indonesia và Ấn Độ ngày càng có tốc độ tăng trưởng đô thị nhanh chóng. Do đó, nhiều người hơn và cơ sở hạ tầng ở các vùng có nguy cơ cao sẽ tự động khiến lũ lụt tiềm ẩn tốn kém hơn. Sự phát triển của các thành phố và số lượng ngày càng tăng của người châu Á sống dọc theo các bờ biển hoặc sông, có nghĩa số lượng người dân ở các khu vực dễ bị lũ lụt đã tăng lên.
Cũng có những thay đổi khác do con người, chẳng hạn như sự tàn phá trên diện rộng để nuôi trồng rừng ngập mặn ven biển, vốn được biết là làm giảm nước dâng do bão và sự xâm nhập của nước biển vào đất liền là do đất bị chìm do xả quá nhiều nước ngầm. Và việc mất các vùng đất ngập nước, các bể chứa nước tự nhiên khác có nghĩa là nhiều thành phố châu Á dễ bị ngập lụt hơn ngay cả khi không tính đến biến đổi khí hậu. Nhưng câu hỏi vẫn là liệu các dự án cơ sở hạ tầng khổng lồ như đập có phải là giải pháp hay không. Một số trận lũ lụt dữ dội nhất đã diễn ra ở lưu vực sông Dương Tử - nơi có một trong những cơ sở hạ tầng quản lý nước khổng lồ nhất hành tinh, bao gồm cả đập Tam Hiệp, lớn nhất thế giới.
Cách châu Á ứng phó với lũ lụt có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với tương lai tăng trưởng kinh tế ở lục địa đông dân và ngày càng giàu có nhất thế giới. Ngân hàng Phát triển châu Á ước tính chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng xanh và xám ở châu Á vào khoảng 800 tỷ USD từ nay đến năm 2030, nhưng chi phí không hành động có thể lớn hơn. Chỉ riêng lũ lụt của Trung Quốc đã gây ra thiệt hại 25 tỷ USD trong năm nay, chưa có con số thống kê nào cho phần còn lại của khu vực. Một nghiên cứu trên Tạp chí Nature cho biết, có tới 12 - 20% tổng sản phẩm quốc nội toàn cầu có thể phải chịu rủi ro lũ lụt vào năm 2100 theo kịch bản thông thường. Các quốc gia đang mở rộng những biện pháp tài khóa để hỗ trợ tăng trưởng trong bối cảnh đại dịch, trong đó một số tập trung vào môi trường, ví dụ như vào tháng 7, Hàn Quốc đã tiết lộ kế hoạch "Thỏa thuận mới xanh" trị giá 73 nghìn tỷ won (tương đương 63 tỷ USD) đến năm 2025, với các mục tiêu chính là phi carbon hóa trong ngành điện và đầu tư vào các tòa nhà tiết kiệm năng lượng.