Củng cố và mở rộng mạng lưới an sinh
Ngày 16/2/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 19-CP thành lập Bảo hiểm Xã hội (BHXH) Việt Nam trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH ở Trung ương và địa phương thuộc hệ thống lao động, thương binh và xã hội và Liên Đoàn lao động. Hệ thống BHXH Việt Nam được tổ chức và quản lý tập trung, thống nhất từ cấp Trung ương đến cấp quận, huyện
Chính sách BHXH, BHYT đang được triển khai hiệu quả, bảo đảm quyền lợi cho người tham gia |
Đến nay, với nỗ lực của toàn ngành, theo BHXH Việt Nam, hệ thống chính sách, pháp luật BHXH, bảo hiểm y tế (BHYT) tiếp tục được hoàn thiện, theo hướng phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và mở rộng quyền lợi của người tham gia, thụ hưởng chính sách. Số người tham gia BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) tiếp tục tăng qua các năm; số người tham gia BHYT vượt mục tiêu đề ra, tiệm cận mục tiêu BHYT toàn dân. Chất lượng dịch vụ BHXH, BHYT từng bước được cải thiện theo hướng hiện đai, chuyên nghiệp và thân thiện với người tham gia.
Bên cạnh đó, Quỹ BHXH, BHYT đã trở thành quỹ an sinh lớn nhất, được quản lý, sử dụng đúng mục đích, an toàn, hiệu quả, công khai, minh bạch dưới sự giám sát của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam. Tỷ lệ chi từ nguồn Quỹ BHXH ngày càng tăng, theo đó, tỷ lệ chi từ ngân sách nhà nước cho BHXH ngày càng giảm, khẳng định quan điểm đúng đắn của Đảng trong việc khuyến khích người dân nâng cao năng lực tự bảo đảm an sinh xã hội.
Số liệu từ BHXH Việt Nam cho thấy, số người tham gia BHXH bắt buộc tăng từ 2,3 triệu người năm 1995 lên 12,1 triệu người vào năm 2015 (gấp 5,3 lần so với năm 1995); đạt 15,1 triệu người vào năm 2021 (gấp 1,25 lần so với năm 2015). So với năm 1995, đến nay, số người tham gia BHXH bắt buộc tăng 12,8 triệu người (gấp gần 6,6 lần), bình quân mỗi năm tăng 0,5 triệu người. Số người tham gia BHXH tự nguyện tăng từ 6 nghìn người năm 2008 lên gần 218 nghìn người vào năm 2015 (gấp 36,3 lần so với năm 2008); đạt 1,45 triệu người vào năm 2021 (gấp 6,65 lần so với năm 2015). So với năm 2008 - năm đầu tiên thực hiện chính sách BHXH tự nguyện, đến nay, số người tham gia BHXH tự nguyện tăng 1,4 triệu người (gấp 241,7 lần), bình quân mỗi năm tăng trên 100 nghìn người.
Về BHYT, số người tham gia tăng từ 7,1 triệu người năm 1995 lên 70 triệu người vào năm 2015 (gấp 9,86 lần so với năm 1995); đạt 88,8 triệu người vào năm 2021 (gấp 1,27 lần so với năm 2015), đạt tỷ lệ bao phủ 91,01% dân số. So với năm 1995, đến nay, số người tham gia BHYT tăng 81,7 triệu người (gấp 12,5 lần), bình quân mỗi năm tăng hơn 3 triệu người. Số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) tăng từ gần 6 triệu người năm 2009 lên 10,3 triệu người vào năm 2015 (gấp 1,7 lần so với năm 1995); đạt 13,4 triệu người vào năm 2021 (gấp 1,3 lần so với năm 2015). So với năm 2009 - năm đầu tiên chính sách BHTN được áp dụng, đến nay, số người tham gia BHTN tăng 7,41 triệu người (gấp 2,24 lần), bình quân mỗi năm tăng 0,6 triệu người.
Đảm bảo tốt nhất quyền lợi người tham gia
Thời gian qua, công tác giải quyết chế độ, chính sách BHXH, BHYT, BHTN được toàn ngành BHXH thực hiện kịp thời, đúng quy định; đặc biệt chuyển đổi hiệu quả phương thức quản lý từ thủ công sang hiện đại, việc giải quyết chế độ BHXH, BHYT căn cứ vào dữ liệu quản lý quá trình tham gia đóng BHXH, BHYT, đảm bảo nguyên tắc "đóng - hưởng"; phương thức hoạt động của hệ thống ngành BHXH Việt Nam được đổi mới theo hướng phục vụ, đẩy mạnh giao dịch điện tử, tăng cường sử dụng các dịch vụ công ích, rút ngắn thời gian giải quyết, giảm phiền hà, đảm bảo quyền lợi cho người lao động (NLĐ) và Nhân dân.
Năm 2020, 2021, BHXH Việt Nam nhấn mạnh, trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, kéo dài, BHXH Việt Nam luôn theo sát diễn biến thực tế, thích ứng nhanh, linh hoạt với tình hình dịch bệnh để triển khai hiệu quả các giải pháp nhằm đảm bảo tốt nhất quyền lợi người tham gia.
Theo đó, từ năm 1995 đến hết năm 2021, toàn ngành BHXH đã giải quyết cho khoảng 135,7 triệu lượt người hưởng các chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe (bình quân mỗi năm trên 5 triệu lượt người hưởng); từ năm 2010 đến hết năm 2021 giải quyết cho trên 8,7 triệu người hưởng các chế độ BHTN; đến cuối năm 2021, tổng số người đang hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng khoảng 3,3 triệu người (tăng179% so với năm 1995); từ năm 2003 đến 2021, BHXH Việt Nam đã phối hợp với các cơ sở y tế bảo đảm quyền lợi khám chữa bệnh (KCB) BHYT cho trên 2.217 triệu lượt người.
Đáng chú ý, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 ảnh hưởng nặng nề đến đời sống, lao động, việc làm của người dân và người lao động (NLĐ), ngành BHXH Việt Nam đã chủ động tích cực và quyết liệt tham gia cùng các Bộ, ngành tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều cơ chế, chính sách, nhất là các Nghị quyết: số 42/NQ-CP, số 68/NQ-CP và số 116/NQ-CP về chính sách hỗ trợ người dân, NLĐ và người sử dụng lao động (SDLĐ) gặp khó khăn do đại dịch Covid-19. Hiện, tổng số tiền ngành BHXH Việt Nam đã triển khai hỗ trợ theo các gói hỗ trợ của Chính phủ là gần 44.786 tỷ đồng. Trong đó, nguồn hỗ trợ từ: Quỹ BHTN là hơn 38.000 tỷ đồng; Quỹ Bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp (TNLĐ-BNN) là 4.322 tỷ đồng; Quỹ Hưu trí và tử tuất là 1.905 tỷ đồng.
Trong báo cáo BHXH Việt Nam cũng đã nêu rõ, sau 27 năm nỗ lực cống hiến và trưởng thành, toàn ngành BHXH đã có gần 20.000 công chức viên chức (CCVC), với mạng lưới rộng lớn phủ khắp các quận, huyện thuộc 63 tỉnh, thành phố; đang từng ngày, từng giờ phục vụ trên 16,5 triệu người tham gia BHXH, BHTN, gần 88,8 triệu người tham gia BHYT. Đồng thời, thực hiện chính sách BHXH, BHYT trong tình hình mới, những năm qua BHXH Việt Nam đã tập trung mọi nguồn lực, triển khai nhiều giải pháp mạnh mẽ, cắt giảm tối đa TTHC, tiết kiệm thời gian, chi phí giao dịch BHXH, BHYT cho người dân, doanh nghiệp theo đúng chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và đã được Chính phủ cùng cộng đồng doanh nghiệp, người dân ghi nhận, đánh giá cao.
Về công tác chuyển đổi số, BHXH Việt Nam đã hoàn thiện kho cơ sở dữ liệu (CSDL) của hơn 98 triệu dân, là nền tảng CSDL quốc gia về bảo hiểm (là một trong 6 CSDL quốc gia tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử); liên thông, chia sẻ dữ liệu với các Bộ, ngành, nhất là kết nối, chia sẻ đồng bộ hóa dữ liệu với CSDL quốc gia về dân cư (đã chia sẻ để để xác thực thông tin của trên 32 triệu công dân); chia sẻ dữ liệu cho các cơ quan để phục vụ công tác phòng chống dịch Covid-19… Đặc biệt, sự ra đời ứng dụng “VssID - BHXH số” được đánh giá là một bước tiến mạnh mẽ trong cải cách hành chính, ứng dụng CNTT của ngành BHXH Việt Nam, góp phần xây dựng Chính phủ điện tử.
Với những kết quả đạt được, vị thế của ngành BHXH Việt Nam được nâng cao không chỉ trong hệ thống chính trị mà cả trong nhận thức của người dân, trong đánh giá của cộng đồng doanh nghiệp và các tổ chức chuyên ngành trong và ngoài nước. Trên cơ sở này, thời gian tới, ngành BHXH Việt Nam đặt quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ, xứng đáng với sự tin tưởng giao phó của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Nhân dân trong thực hiện các chính sách BHXH, BHYT, những trụ cột trong hệ thống chính sách an sinh xã hội. |