Báo cáo Về công tác xây dựng Đảng của Ban Chấp hành Trung ương khóa IV trình tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng
Thưa các đồng chí đại biểu thân mến,
Trong quá trình phát triển không ngừng của cách mạng nước ta từ sau Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng đến nay, dưới ánh sáng của đường lối đúng đắn do Đại hội đề ra, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ra sức phấn đấu khắc phục mọi khó khăn, vượt qua mọi thử thách và đã giành được những thắng lợi rất to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, những thành tựu bước đầu trong sự nghiệp xây dựng lại đất nước.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương do đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư của Đảng trình bày, đã tổng kết một cách toàn diện tình hình cách mạng nước ta từ sau thắng lợi vĩ đại mùa Xuân năm 1975, sự hoạt động của Ban Chấp hành Trung ương trong nhiệm kỳ qua và đề nghị với Đại hội những mục tiêu, nhiệm vụ, biện pháp nhằm đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta trong thời gian tới tiến lên vững chắc.
Báo cáo về xây dựng Đảng của Ban Chấp hành Trung ương tổng kết tình hình của Đảng và công tác xây dựng Đảng từ sau Đại hội toàn quốc lần thứ IV, đề nghị với Đại hội những nhiệm vụ, chủ trương và biện pháp lớn về xây dựng Đảng ta nhằm tạo ra một sự chuyển biến mới trong việc nâng cao chất lượng lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng đáp ứng những yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới đã được trình bày trong Báo cáo chính trị.
Phần một
Tình hình Đảng ta từ sau Đại hội toàn quốc lần thứ IV và nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng
I- Những ưu điểm, khuyết điểm của Đảng và của công tác xây dựng Đảng
Thưa các đồng chí,
Tháng 12 năm 1976, Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã đề ra đường lối chung về cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Năm năm qua, chấp hành các nghị quyết của Đại hội, Đảng ta đã triển khai những nhiệm vụ rộng lớn và rất khẩn trương trên quy mô cả nước trong điều kiện có nhiều thuận lợi mới nhưng cũng đầy khó khăn, phức tạp mới.
Bước vào cuộc chiến đấu trên mặt trận kinh tế - xã hội chưa được bao lâu thì chúng ta đã phải đương đầu với kẻ thù mới rất dã man và xảo quyệt...
Trước tình hình mới, Đảng ta đã tiếp tục phát huy truyền thống đấu tranh kiên cường, nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đưa nhân dân ta tiến lên giành những thắng lợi rất vẻ vang trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và làm tròn nghĩa vụ quốc tế.
1. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị, Đảng ta đã có những ưu điểm rất cơ bản, đồng thời cũng bộc lộ những nhược điểm và khuyết điểm lớn cần ra sức khắc phục
Những thắng lợi to lớn đã được khẳng định trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương nói lên phẩm chất anh hùng và sức mạnh chiến đấu vĩ đại của nhân dân ta, những ưu điểm cơ bản của Đảng ta, của đội ngũ cán bộ, đảng viên ta. Những khuyết điểm, nhược điểm trong việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội cũng đã đặt ra cho Đảng và đội ngũ của Đảng nhiều yêu cầu mới nhằm tăng cường chất lượng lãnh đạo, nâng cao sức mạnh chiến đấu của Đảng. Thực tiễn cách mạng 5 năm qua tiếp tục chứng minh rằng:
a)Đảng ta là một đảng Mác - Lênin kiên cường, vững vàng về đường lối, đã tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi thử thách nghiêm trọng của đất nước, luôn luôn phát huy tinh thần cách mạng tiến công để đưa cách mạng tiến lên không ngừng
Đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa, đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, đường lối đối ngoại của Đảng là đúng đắn. Trong mọi tình huống khó khăn, phức tạp, Đảng đã kiên trì đường lối đúng đắn ấy.
... Đảng đã quyết tâm đưa dân tộc ta đứng lên gánh vác sứ mạng lịch sử mới và khẳng định: "Trong cuộc đấu tranh này, nhân dân ta phải toàn thắng, làm cho chủ nghĩa xã hội ở nước ta không ngừng tiến lên, Đảng và Nhà nước ta mạnh lên, tổ chức và quản lý khoa học hơn, xã hội ta tốt đẹp hơn" .
Trước hành động xâm lược của kẻ thù dân tộc, toàn Đảng đã siết chặt hàng ngũ xung quanh Ban Chấp hành Trung ương, động viên, tổ chức toàn quân, toàn dân đánh bại hai cuộc chiến tranh xâm lược của chúng, giành thắng lợi có ý nghĩa lịch sử hết sức to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Đảng ta rất tự hào về đội ngũ của mình, một đội ngũ tuyệt đối trung thành với dân tộc, với Đảng, với chế độ, đã được rèn luyện trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc cũng như trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và từng bước được nâng cao về trình độ mọi mặt. Đảng ta rất tự hào về những đảng viên đang hoạt động quên mình ở mọi ngành, ở các địa phương, các cơ sở và ở các đơn vị chiến đấu. Biết bao cán bộ, đảng viên đã chiến đấu suốt mấy chục năm trường, nay vẫn có mặt ngoài tiền tuyến, không quản ngại gian khổ, khó khăn, đương đầu với quân thù, sẵn sàng chấp nhận mọi thử thách, kể cả sự hy sinh cao nhất! Biết bao cán bộ, đảng viên ngày đêm lăn lộn, tổ chức, xây dựng phong trào cách mạng để phát triển kinh tế và văn hóa, ổn định đời sống của nhân dân, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đã góp phần xứng đáng vào những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng.
Lập trường kiên định của Đảng trong việc giáng trả mọi âm mưu và hành động xâm lược... cùng sự kiên định đưa cách mạng tiến lên, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội chứng tỏ Đảng ta là một đảng Mác - Lênin chân chính, đã không bao giờ do dự hoặc lùi bước trước thử thách. Đó là một ưu điểm và cũng là một bài học kinh nghiệm lớn của Đảng ta.
b)Đảng ta đã nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp hài hoà giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng và đã phấn đấu cao để làm tròn nghĩa vụ quốc tế
Với lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa nồng nàn và tinh thần quốc tế vô sản sâu sắc, chúng ta đã hết sức ủng hộ và giúp đỡ nhân dân Campuchia anh em đập tan chế độ diệt chủng. Với thắng lợi đó của nhân dân Campuchia, cả ba nước Đông Dương đã hoàn toàn độc lập, tự do và cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi to lớn đó đã tăng cường sự liên minh chiến đấu và hình thành thế liên hoàn vững chắc chưa từng có của cách mạng ba nước Đông Dương để..., bảo vệ nền độc lập, tự do của mỗi nước, góp phần vào sự nghiệp củng cố hoà bình ở Đông Nam á và thế giới.
Cũng với tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa nồng nàn và tinh thần quốc tế vô sản sâu sắc, Đảng và nhân dân ta đã phát triển mạnh mẽ tình đoàn kết chiến đấu và sự hợp tác toàn diện với Liên Xô, thành trì của cách mạng và hoà bình thế giới, đã ra sức tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và sự hợp tác anh em với các nước khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa.
Sự kết hợp giữa tinh thần yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản trên đây đã khẳng định lòng trung thành vô hạn của Đảng ta với chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản...
... trước bước ngoặt mới của cách mạng, sự kiên định trên đây về đường lối quốc tế của Đảng, việc đề ra các chủ trương chiến lược kiên quyết và sáng suốt, các quyết định chính xác và kịp thời để giành thắng lợi trong đấu tranh chống quân... xâm lược nói lên sự vững vàng, bản chất lêninnít và tinh thần quốc tế vô sản trong sáng của Đảng ta. Đó cũng là một ưu điểm và cũng là một bài học kinh nghiệm lớn của Đảng.
c)Bên cạnh những thắng lợi đã giành được trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta cũng đã phạm những khuyết điểm và sai lầm trong lãnh đạo quản lý kinh tế - xã hội. Qua thắng lợi và trước những vấp váp, Đảng đã hiểu thêm thực tiễn của đất nước, có thêm những kinh nghiệm và bước trưởng thành mới trên lĩnh vực quản lý kinh tế và xã hội.
Từ Đại hội lần thứ IV của Đảng đến nay, các tổ chức của Đảng đã có những tiến bộ trong cuộc đấu tranh để thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Đội ngũ của Đảng đã trưởng thành thêm.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta thu được nhiều thành tựu mới: nhanh chóng thống nhất nước nhà, khắc phục những hậu quả nặng nề do chiến tranh xâm lược và thiên tai liên tiếp gây ra, khôi phục về cơ bản các cơ sở kinh tế bị giặc đánh phá, từng bước xây dựng và tăng cường chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, củng cố một bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, tạo thêm một số cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, giành thêm nhiều thành tựu trong công tác giáo dục, văn hóa, y tế, xã hội.
Qua thực tiễn chấp hành Nghị quyết của Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương, các cấp uỷ đảng, các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức sản xuất, kinh doanh đã thấy rõ hơn các khuyết điểm, nhược điểm của mình và đang tìm các biện pháp khắc phục những khuyết điểm, nhược điểm ấy. Nhiều đảng bộ, cán bộ, đảng viên đã phát huy sáng kiến, khắc phục khó khăn, ủng hộ cái mới, đưa phong trào quần chúng đi lên.
Thấy được khuyết điểm, tìm tòi suy nghĩ để tìm ra biện pháp khắc phục khó khăn là biểu hiện của sự trưởng thành. Chúng ta hoan nghênh mọi cố gắng phấn đấu của cán bộ, đảng viên và của các tổ chức đảng, các đoàn thể, các cơ quan nhà nước, các đơn vị cơ sở trong việc nâng cao tính tích cực, phát huy sáng kiến nhằm sửa chữa khuyết điểm, khắc phục khó khăn.
Chúng ta khôi phục và phát triển kinh tế, ổn định đời sống trong tình hình cách mạng chuyển biến nhanh chóng nhưng nhiều mặt công tác, cả về tư tưởng và về tổ chức, lại chưa được chuẩn bị tốt. Trong khi chúng ta bắt tay vào quản lý đất nước đang mang nặng trên mình vết thương do hơn 30 năm chiến tranh để lại, thì chiến tranh xâm lược mới lại xảy ra. Chúng ta phải vừa xây dựng đất nước, vừa bảo vệ Tổ quốc; quân thù đã thất bại, nhưng âm mưu, quỷ kế của chúng còn tiếp tục; cuộc chiến đấu chưa chấm dứt. Chúng ta vừa ổn định và phát triển kinh tế, vừa xây dựng lực lượng quốc phòng và an ninh mạnh mẽ để đối phó với một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt mà kẻ địch đang tiến hành, và để sẵn sàng tiêu diệt địch nếu chúng lại liều lĩnh gây ra cuộc chiến tranh xâm lược mới.
Cũng cần nhận rõ rằng, tuy Đảng ta là đảng cầm quyền từ trên 35 năm nay, nhưng thời gian chưa có bao nhiêu để tập trung lãnh đạo kinh tế, lại thiếu tổng kết công tác kinh tế nên kinh nghiệm về mặt này của chúng ta còn rất ít.
Những khó khăn hiện nay thật sự có những nguyên nhân khách quan, song phải nghiêm khắc nhận rõ những khuyết điểm và sai lầm chủ quan của chúng ta nhất là trong lãnh đạo về quản lý kinh tế - xã hội.
Đường lối chính trị và đường lối kinh tế trong cả thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta do Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng đề ra là đúng đắn. Nhưng chúng ta đã chậm cụ thể hoá và mắc phải những khuyết điểm, sai lầm trong việc cụ thể hoá đường lối và chấp hành đường lối của Đại hội.
Trong việc đề ra nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm (1976 - 1980), chúng ta đã đánh giá tình hình chưa sát với thực tế, thấy chưa hết các khó khăn, đã phạm chủ quan, nóng vội, đề ra những nhiệm vụ và chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước quá cao so với khả năng; việc bố trí về đầu tư chung và cho từng ngành đã có những khuyết điểm lớn. Mặt khác, cần nhấn mạnh là chúng ta cũng bảo thủ, trì trệ trong việc đề ra và chấp hành những chủ trương chính sách cụ thể để thực hiện đường lối, trong việc đánh giá và vận dụng những khả năng về nhiều mặt của chúng ta.
Chúng ta có khuyết điểm, sai lầm lớn về tổ chức thực hiện, có nhiều mặt yếu kém về quản lý kinh tế. Tình trạng quan liêu, bảo thủ, trì trệ, vô trách nhiệm, phân tán trong tổ chức thực hiện là nghiêm trọng. Chúng ta đã để kéo dài tình trạng quản lý kinh tế theo lối quan liêu, bao cấp; chậm đổi mới phương pháp làm kế hoạch, chậm đề ra các chính sách kinh tế phù hợp làm đòn bẩy cho kinh tế phát triển, chậm chuyển sang hạch toán kinh tế và không biết kinh doanh.
Trên nhiều mặt, ở nhiều nơi, nhiều lúc chúng ta đã phạm khuyết điểm
buông lỏng
trong quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội, trong công tác tư tưởng, công tác an ninh, đã không tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa để giữ vững kỷ cương xã hội, làm cho mặt tiêu cực phát triển kéo dài và chậm được khắc phục.
Các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương gần đây, nhất là các Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu, lần thứ chín và các nghị quyết của Bộ Chính trị về phân phối, lưu thông, về an ninh chính trị, về chính sách khoa học và kỹ thuật, về công tác tổ chức và nghị quyết của Ban Bí thư về công tác tư tưởng, đã đặt cơ sở bước đầu cho một sự chuyển hướng nhằm khắc phục các thiếu sót, khuyết điểm đó. Một số chính sách về phân phối, lưu thông, về cải tiến quản lý kinh tế được đưa vào cuộc sống, bước đầu đang tạo ra những nhân tố tích cực trong các hoạt động kinh tế.
Bài học kinh nghiệm lớn
mà chúng ta rút được từ những thắng lợi và vấp váp trong những năm qua chính là sau khi vạch ra đường lối đúng, thì điều rất quan trọng là phải làm quán triệt đường lối một cách sâu sắc, biết cụ thể hoá đường lối một cách kịp thời và chính xác, với bước đi, kế hoạch và cơ chế quản lý phù hợp với thực tiễn của đất nước để từ đó mà chuyển hướng đồng bộ các biện pháp về kinh tế và hành chính, về tư tưởng và tổ chức nhằm bảo đảm cho đường lối được thấu suốt và được tổ chức thực hiện thắng lợi.
Hiện nay việc sửa chữa các khuyết điểm còn chậm, tình trạng trì trệ vẫn còn nặng nề, chúng ta tin tưởng rằng Nghị quyết của Đại hội lần thứ V của Đảng với những bài học kinh nghiệm của 5 năm qua sẽ tạo ra một sự chuyển biến mạnh mẽ và sâu sắc trong Đảng, đưa năng lực lãnh đạo và tổ chức của Đảng lên một trình độ mới, và mở ra những triển vọng mới trong việc đưa nền kinh tế và đời sống của nhân dân ta tiến lên.
2. Những ưu điểm và khuyết điểm trong sự lãnh đạo chính trị của Đảng gắn liền với những ưu điểm và khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và về tổ chức
a)Năm năm qua, chúng ta đã có những cố gắng mới trong công tác xây dựng Đảng về các mặt này:
Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã tổng kết công tác xây dựng Đảng, đề ra nhiệm vụ, phương châm và chủ trương đúng đắn về xây dựng Đảng trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội và thông qua Điều lệ mới (sửa đổi) của Đảng.
Thi hành Nghị quyết của Đại hội, chúng ta đã phấn đấu để không ngừng nâng cao tính chất giai cấp công nhân, tính tiền phong của Đảng, cụ thể hoá và vận dụng phương châm xây dựng Đảng do Đại hội đề ra.
Các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương đã thể hiện sự gắn bó hơn giữa nhiệm vụ chính trị với công tác tư tưởng và công tác tổ chức. Bộ Chính trị, Ban Bí thư có nhiều chỉ thị cụ thể về công tác này.
Với các chủ trương đúng đắn ấy, chúng ta đã xây dựng và từng bước kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng trong cả nước, đã sử dụng bộ máy ấy để lãnh đạo và tổ chức nhân dân thực hiện những công tác lớn có ý nghĩa chiến lược về cải tạo và xây dựng kinh tế, văn hoá, phát triển sản xuất, về tổ chức đời sống nhân dân, tăng cường quốc phòng, giữ gìn trật tự, an ninh, đánh thắng quân... xâm lược và làm tròn nghĩa vụ quốc tế.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương về kiện toàn tổ chức, cải tiến chế độ làm việc, Nghị quyết số 32-NQ/TW của Bộ Chính trị về "thực hiện một sự chuyển biến sâu sắc về tổ chức nhằm tăng cường lãnh đạo và quản lý, nhất là về kinh tế" đã thể hiện rõ hơn phương châm xây dựng Đảng ta và đã cụ thể hoá quan điểm của Đảng về xây dựng cơ cấu tổ chức trong điều kiện cụ thể cách mạng nước ta.
Hiến pháp mới của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thể chế hoá đường lối đối nội, đối ngoại của Đảng, đặt nền tảng cho việc xây dựng và củng cố chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ chế "Đảng lãnh đạo, nhân dân lao động làm chủ tập thể, Nhà nước quản lý".
Chúng ta cũng đã có những cố gắng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Trong 5 năm qua chấp hành Điều lệ Đảng, các cấp đã tiến hành hai lần đại hội đảng bộ. Việc tiến hành Đại hội theo Chỉ thị 55-CT/TW của Ban Bí thư được chỉ đạo tập trung hơn trước, là một dịp tiến hành xây dựng Đảng một cách toàn diện về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là một dịp mở rộng dân chủ nội bộ, tiến hành tự phê bình và phê bình từ trên xuống, từ dưới lên một cách sâu sắc, một dịp phát động quần chúng tham gia xây dựng Đảng một cách toàn diện.
Mỗi lần đại hội bầu cử cấp uỷ, khoảng trên dưới 1/3 số cấp uỷ viên ở các cấp đã được đổi mới; số cấp uỷ viên có phẩm chất, có kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý, đã qua các trường Đảng, số xuất thân từ công nhân được tăng thêm. Trong các tỉnh uỷ, thành uỷ, số cấp uỷ viên có trình độ đại học nói chung chiếm 27,7% (ở miền Bắc là 42%; có tỉnh như Hải Hưng 81%); ở các huyện uỷ, số đồng chí có trình độ đại học và trung học chuyên nghiệp là 24,6% (ở miền Bắc là 32%). Đó là một sự phát triển mới về trình độ kiến thức của đội ngũcán bộ lãnh đạo so với trước Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng.
Việc phát thẻ Đảng được tiến hành lần đầu tiên trong Đảng ta là một cuộc sinh hoạt chính trị sâu rộng, đã nâng cao ý thức đảng, tinh thần trách nhiệm của đảng viên. Chúng ta hoan nghênh những kết quả bước đầu đó của công tác phát thẻ Đảng.
Trong 5 năm qua, Đảng đã đưa ra khỏi đội ngũ của mình nhiều người không đủ tư cách đảng viên.
Công tác kiểm tra của Uỷ ban kiểm tra các cấp được tăng cường một bước đã đem lại những kết quả nhất định góp phần phát huy mặt tích cực, khắc phục mặt tiêu cực, phát hiện, đưa ra khỏi Đảng những phần tử xấu và không còn đủ tư cách đảng viên.
Qua các phong trào quần chúng trong sản xuất, chiến đấu, Đảng đã kết nạp vào đội ngũ của mình trên 375.000 đảng viên, trong đó trên 85% là đoàn viên ưu tú của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Việc kết nạp đảng viên mới đã góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ của Đảng, lập thêm nhiều chi bộ đảng. Trong số gần 15 vạn chi bộ thuộc 35.146 tổ chức cơ sở đảng, đã có 39.766 chi bộ mới được thành lập từ sau Đại hội lần thứ IV của Đảng.
Việc kiện toàn các tổ chức cơ sở đảng với cuộc vận động xây dựng cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh theo năm yêu cầu gắn liền với kiện toàn cơ sở, xây dựng huyện đang được xúc tiến; qua cuộc vận động, diện cơ sở đảng yếu kém ở nhiều nơi được thu hẹp dần.
Các cấp uỷ và tổ chức đảng ở miền Nam từ tỉnh, thành phố đến cơ sở được xây dựng đều khắp, có một số đảng bộ có tiến bộ nhanh trong lãnh đạo kinh tế, văn hoá.
Đảng và Nhà nước ta cũng chăm lo đào tạo cán bộ đáp ứng các yêu cầu của nhiệm vụ kinh tế, quốc phòng; đã điều động gần 10 vạn cán bộ cho các tỉnh, thành phố miền Nam, các huyện biên giới và đi làm nhiệm vụ quốc tế; gần đây đã mở các lớp bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cao cấp, trung cấp của Đảng và Nhà nước những kiến thức mới về quản lý kinh tế. Trong 5 năm có thêm 34 vạn cán bộ đã tốt nghiệp tại các trường, lớp trung học chuyên nghiệp và đại học.
Hệ thống trường đảng các cấp được mở rộng, công tác giáo dục lý luận chính trị được tăng cường. Trên một triệu đảng viên đã được học tập, bồi dưỡng về chính trị, lý luận theo các chương trình khác nhau. Báo chí, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, công tác văn hoá, văn nghệ và các công cụ tuyên truyền của Đảng, Nhà nước đã góp phần tăng cường một bước mặt trận tư tưởng của Đảng.
Những cố gắng trong công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và về tổ chức đã góp phần nâng cao trình độ và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, bảo đảm thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng.
b) Mặc dầu có những cố gắng và kết quả đó, công tác tư tưởng và công tác tổ chức của Đảng trên các lĩnh vực, nhất là về xây dựng chủ nghĩa xã hội, về nhiều mặt vẫn còn rất trì trệ.
Trên mặt trận tư tưởng:
công tác tư tưởng còn thiếu sắc bén, thiếu kịp thời và kém tính chiến đấu. Có những mặt còn phạm hữu khuynh, giản đơn, một chiều, kém tính linh hoạt, chưa bám chắc những vấn đề nóng hổi do cuộc sống đặt ra nên hiệu quả thấp.
Chỗ yếu trước hết của công tác tư tưởng là chưa làm thấu suốt được đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong toàn Đảng, toàn dân và chưa tạo ra được sự nhất trí cao trên cơ sở những căn cứ lý luận và thực tiễn đầy đủ của đường lối đúng đắn của Đảng. Tính giai cấp trong nội dung giáo dục tư tưởng còn chưa được coi trọng.
Đối với chúng ta, việc đưa một nền kinh tế từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa là sự tiến công vào lĩnh vực khó khăn và phức tạp chưa từng được khai phá. Chúng ta chưa hiểu sâu sắc đặc điểm đó, lại thiếu biện pháp tích cực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về chủ nghĩa xã hội, về quản lý kinh tế, thiếu tổng kết từ thực tiễn nên việc quán triệt đường lối thiếu sâu sắc, và việc cụ thể hoá đường lối chưa sát hợp với từng giai đoạn, từng ngành, từng địa phương.
Sau chiến thắng chống Mỹ, chúng ta đã thiếu giáo dục sâu rộng về chuyển biến giai đoạn, chưa đánh giá đúng tình hình, chưa lường hết các khó khăn và những diễn biến về tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng để bằng mọi biện pháp chủ động ngăn chặn các mặt tiêu cực. Việc giáo dục về cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa chưa được tiến hành thường xuyên và sâu sắc. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao giác ngộ về cách mạng xã hội chủ nghĩa, về lý tưởng cộng sản trong Đảng, trong nhân dân, nhất là trong thanh niên, bị xem nhẹ. Việc giáo dục tư tưởng làm chủ tập thể cho cán bộ, đảng viên và quần chúng thiếu cụ thể, thiết thực.
Trên mọi lĩnh vực khác nhau, cuộc đấu tranh để khắc phục những tư tưởng phi xã hội chủ nghĩa như tư tưởng tiểu tư sản, tư tưởng tư sản, tàn dư văn hoá của chủ nghĩa thực dân mới và tàn dư tư tưởng phong kiến, v.v. không được coi trọng.
Trong đấu tranh chống địch, sự hiểu biết của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân lao động về bản chất và tư tưởng phản động..., của đế quốc Mỹ còn chưa sâu sắc. Tình hình thiếu cảnh giác cách mạng là nghiêm trọng.
Chúng ta đã không kịp thời vạch cho cán bộ, đảng viên và nhân dân thấy hết âm mưu và thủ đoạn thâm độc của chúng nhằm phá hoại nội bộ Đảng ta, phá hoại sự đoàn kết nhất trí của Đảng, làm suy yếu Nhà nước chuyên chính vô sản, làm sa đoạ đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân viên nhà nước, phá hoại cơ sở quần chúng của Đảng, phá hoại nền kinh tế nước ta.
Trong Đảng và cơ quan nhà nước, bên cạnh tư tưởng nóng vội, tình trạng thiếu nhạy bén, quan liêu, bảo thủ nặng nề đang là một nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trì trệ hiện nay. Tình hình đó đang hạn chế việc tiếp thu sâu sắc và chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách, kìm hãm sức sáng tạo của quần chúng, của cán bộ, đảng viên, cản trở việc đổi mới cơ chế quản lý, việc sửa đổi các chính sách, chế độ đã lạc hậu.
Những năm gần đây, nguyên tắc tập trung dân chủ ở nhiều nơi không được chấp hành triệt để. Tình trạng vô tổ chức vô kỷ luật, cục bộ, địa phương với mức độ khác nhau phát triển phổ biến.
Mặt khác, tình hình mất dân chủ, thiếu tự phê bình từ trên xuống và phê bình từ dưới lên, thiếu thông tin đầy đủ và kịp thời cho cấp dưới, không xem trọng việc phân tích dư luận của quần chúng, những hiện tượng gia trưởng, độc đoán, thành kiến với cán bộ, trù dập cán bộ, đảng viên và quần chúng tốt dám phê bình khuyết điểm cũng không kém phần nghiêm trọng.
Tình trạng sa sút phẩm chất, giảm sút ý chí chiến đấu trong một bộ phận cán bộ phụ trách ở các cấp, các ngành từ trên xuống dưới và một bộ phận đảng viên đang gây tác hại lớn. Nhiều người từ sai lầm trong sinh hoạt, quan liêu hoá trong tác phong, đã đi đến chỗ bị biến chất trong lối sống, thoái hoá về chính trị. Đến nay, số này vẫn chưa được sàng lọc hết.
Đảng ta có truyền thống đoàn kết thống nhất về đường lối. Nhưng vừa qua, việc cụ thể hoá đường lối còn chậm, việc làm quán triệt đường lối chưa sâu sắc. Trên một số vấn đề về chủ trương để thực hiện đường lối còn chưa thật thông suốt hoặc thiếu sự nhất trí cao ở các cấp, các ngành. Bên cạnh tình hình đó, trong cán bộ, đảng viên, do phương pháp tư tưởng không đúng đắn (như chủ quan, phiến diện, giản đơn,
v.v.) hoặc do những động cơ không trong sáng xuất phát từ chủ nghĩa cá nhân cùng những tư tưởng không vô sản khác như gia trưởng, phong kiến, đặc quyền, đặc lợi, cơ hội, kèn cựa, địa vị, v.v. nên đã gây nên tình trạng thiếu đoàn kết, kém hợp tác, thậm chí bè cánh trong một số cán bộ ở không ít địa phương, cơ quan, đơn vị.
Cần nhấn mạnh rằng, Đảng ta là một đảng nắm chính quyền, nên những nhược điểm về trình độ và những khuyết điểm trên đây về phẩm chất, đạo đức của cán bộ, đảng viên đã làm cản trở việc tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, gây tác hại lớn về kinh tế, chính trị, và đang bị kẻ địch lợi dụng để kích động quần chúng, làm giảm sút lòng tin của quần chúng đối với Đảng.
Chúng ta đã nhiều lần nói tới tình hình đó, đã phân tích nguyên nhân và đề ra biện pháp giải quyết. Song những biện pháp đề ra đã không được triển khai đồng bộ, không được chỉ đạo ráo riết và ở nhiều nơi không được chấp hành nghiêm túc ngay từ trong đội ngũ cán bộ chủ chốt, hoặc do cảm tình nể nang kém đấu tranh nội bộ nên việc sửa chữa còn ít có hiệu quả.
Về mặt tổ chức:
công tác tổ chức cũng rất trì trệ, chậm chuyển hướng, không đi kịp tình hình và nhiệm vụ.
Chúng ta chưa xây dựng được một cơ cấu tổ chức đồng bộ và mạnh
từ trung ương cho đến cơ sở. Cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân lao động làm chủ tập thể, Nhà nước quản lý, như Báo cáo chính trị đã chỉ rõ, chưa thể hiện trong nền nếp sinh hoạt hằng ngày của các cấp uỷ đảng, các cơ quan nhà nước và các đoàn thể quần chúng ở mọi cấp, mọi ngành.
Tổ chức đảng có nơi chưa trong sạch. Nhiều tổ chức cơ sở đảng yếu kém kéo dài. Chất lượng sinh hoạt chi bộ thấp, tính năng động chủ quan của nhiều đảng bộ cơ sở yếu. Các cơ sở sản xuất - kinh doanh, tế bào của nền kinh tế quốc dân, nơi trực tiếp phát huy các tiềm năng về mọi mặt, nơi trực tiếp tạo ra mọi của cải vật chất cho xã hội, chưa có cơ chế đồng bộ để hoạt động theo phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Các huyện chậm được xây dựng theo yêu cầu mà Đại hội lần thứ IV của Đảng đã đề ra; nhiều tổ chức liên hiệp sản xuất vẫn mang nặng tính chất hoạt động của cơ quan hành chính. Tình hình đó đã ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.
Chỗ yếu kém trong cơ cấu tổ chức của Đảng và Nhà nước từ trung ương đến cơ sở nói chung hiện nay là bộ máy tổ chức cồng kềnh, nặng nề mà hiệu lực lại thấp, chế độ trách nhiệm không rõ ràng; sự phân định về chức năng, trách nhiệm, quyền hạn giữa cơ quan đảng, cơ quan nhà nước và các đoàn thể, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa cơ quan quản lý với các đơn vị sản xuất, kinh doanh, sự nghiệp, giữa cá nhân và tập thể đều chưa thật rõ. Việc chia tách hoặc sáp nhập tổ chức, thành lập tổ chức mới trong nhiều trường hợp còn tuỳ tiện.
Cơ chế quản lý kinh tế quan liêu và bao cấp đang gây tác hại về nhiều mặt, gây tâm lý ỷ lại, tạo ra thói vô trách nhiệm, làm mất tính năng động của bộ máy, kìm hãm sáng kiến của quần chúng, tạo điều kiện cho tệ quan liêu phát triển mạnh, làm cho biên chế hành chính quá nặng nề. Có tình hình vừa tập trung quan liêu, vừa phân tán chia cắt, vừa không phát huy được tính chủ động của ngành, địa phương và cơ sở, vừa không bảo đảm lãnh đạo và quản lý tập trung thống nhất của trung ương, quản lý thông suốt toàn ngành.
Công tác cán bộ còn bảo thủ, trì trệ về nhiều mặt:
đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, đề bạt cũng như chính sách, chế độ đãi ngộ. Đó là một nguyên nhân hết sức trọng yếu của sự trì trệ trong công tác tổ chức và nhiều việc khác.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về quản lý kinh tế bị xem nhẹ; việc đào tạo cán bộ khoa học, kỹ thuật được đẩy mạnh nhưng mất cân đối về nhiều mặt; việc sử dụng đội ngũ này chưa tốt. Việc đào tạo cán bộ trong công nhân cho các địa phương miền Nam, miền núi, đào tạo bồi dưỡng cán bộ nữ, cán bộ quản lý hợp tác xã, xí nghiệp và các loại cơ sở khác theo từng chức danh thiếu quy hoạch, kế hoạch, biện pháp và chương trình thích hợp.
Việc bố trí đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các cấp, các ngành những năm qua tuy có những tiến bộ nhưng còn bảo thủ, chắp vá, trước hết là do thiếu một quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với sự phát triển của nhiệm vụ chính trị. Công tác đề bạt cán bộ còn bị chi phối khá nặng nề bởi quan điểm đánh giá và lựa chọn người theo lối cũ, quá nhấn mạnh đến quá trình công tác, nặng tác phong, thái độ, về cấp bậc, chức vụ hoặc bằng cấp đã qua, chưa thật sự lấy hiệu quả công việc làm thước đo chủ yếu của phẩm chất và năng lực. Công tác quản lý cán bộ chậm được đổi mới. Nhiều chính sách, chế độ đãi ngộ cán bộ lạc hậu, bảo thủ, không khuyến khích phát triển tài năng, gây tâm lý không lành mạnh trong cán bộ và ngoài xã hội.
Chúng ta chưa xây dựng được phong cách và chế độ làm việc cách mạng và khoa học. Bệnh sự vụ, thủ công, phân tán, họp hành, giấy tờ quá nhiều từ trên xuống dưới, đều còn rất nặng là một nguyên nhân quan trọng của những khuyết điểm trong việc ra những quyết định thiếu chính xác, thiếu cụ thể.
Công tác kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng cũng như kiểm tra việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ và việc thi hành kỷ luật trong Đảng còn rất yếu.
Những khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức đang làm cho bộ máy của chúng ta kém hiệu lực và có mộtsức ỳ rất lớn. Kẻ địch đã lợi dụng và khoét sâu các khuyết điểm đó để làm tăng thêm những khó khăn trong đời sống kinh tế - xã hội, làm giảm sút lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo và quản lý kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
Hội nghị lần thứ tư của Trung ương và tiếp đó, Hội nghị Bộ Chính trị về công tác tổ chức, Hội nghị Ban Bí thư về công tác tư tưởng đã chỉ rõ nguồn gốc sâu xa của những khuyết điểm và nhược điểm trong công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và về tổ chức. Những nguyên nhân trực tiếp của những khuyết điểm đó là do trong chỉ đạo thực hiện, Trung ương và các cấp uỷ chưa gắn chặt công tác tư tưởng và công tác tổ chức với nhiệm vụ chính trị, thiếu kiên quyết sửa chữa những khuyết điểm, thiếu sơ kết tổng kết những vấn đề lớn trong từng thời gian, thiếu cụ thể hoá các vấn đề cần thiết về xây dựng Đảng cho phù hợp với từng vùng, từng loại cơ sở,
v.v.. Các cơ quan tham mưu về công tác tư tưởng và công tác tổ chức của ban chấp hành các cấp trước hết là của Ban Chấp hành Trung ương và các cơ quan tổ chức của các ngành, chậm được kiện toàn, còn yếu, chưa đủ sức đáp ứng những yêu cầu của nhiệm vụ được giao. Cần ra sức khắc phục tình hình đó của các khuyết điểm và nhược điểm của công tác xây dựng Đảng.
Bài học kinh nghiệm
của việc chỉ đạo công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và về tổ chức trong thời gian qua là phải coi trọng việc làm quán triệt sâu sắc hơn nữa tính chất giai cấp công nhân, tính tiền phong của Đảng, các nguyên tắc và phương châm xây dựng Đảng đã được Đại hội toàn quốc lần thứ IV tổng kết, cụ thể hoá và phát triển hơn nữa cho sát với thực tế của tình hình không ngừng đổi mới, và chỉ đạo việc thực hiện các nguyên tắc, phương châm ấy một cách đồng bộ. Cần đề cao vai trò gương mẫu và kỷ luật chấp hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng mà đặc biệt là các nghị quyết, chỉ thị về công tác tư tưởng và công tác tổ chức, từ trên xuống dưới, trước hết là từ trong cơ quan lãnh đạo và cán bộ chủ chốt ở mọi cấp, mọi ngành, nhất là từ cấp trung ương và các cấp uỷ cấp trên để có thể triển khai tốt xuống cơ sở.
Công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức phải bám chắc và nhằm thúc đẩy hơn nữa những nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ kinh tế, mà khâu rất bức thiết hiện nay là đổi mới công tác quản lý kinh tế, nhất là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Đó là điều mà trước đây chúng ta chưa coi trọng.
Thưa các đồng chí,
Nhìn một cách tổng quát, những khuyết điểm trong lãnh đạo và quản lý kinh tế - xã hội cũng như trong công tác tư tưởng và công tác tổ chức trong thời gian qua là rất nghiêm trọng.
Ban Chấp hành Trung ương, trong Báo cáo chính trị trước Đại hội, đã nghiêm khắc tự phê bình và nhận trước Đại hội trách nhiệm về phần mình.
Những khuyết điểm sai lầm trong việc cụ thể hoá đường lối và trong tổ chức thực hiện các nghị quyết có nguyên nhân tổng hợp cả về tư tưởng và về tổ chức.
Trong việc cụ thể hoá đường lối, chúng ta đã có khuyết điểm chưa coi trọng bồi dưỡng quan điểm cơ bản của đường lối, chậm bồi dưỡng kiến thức về kinh tế cho cán bộ, đảng viên, đánh giá chưa sát tình hình, chưa tập hợp được trí tuệ của nhiều cấp, nhiều ngành, ít tổng kết kinh nghiệm thực tiễn ở địa phương và cơ sở, ít làm thử để nghiên cứu, chỉ đạo những vấn đề lớn và mới, không coi trọng kiện toàn để sử dụng tốt các cơ quan tham mưu của Trung ương Đảng, các cơ quan tổng hợp của Nhà nước, các bộ phận tham mưu, nghiên cứu của các bộ, các viện và trường cho tương xứng với tầm quan trọng của nó. Cơ cấu tổ chức, cách phân công, phương pháp làm việc có chỗ chưa hợp lý, trước hết là từ trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng cũng là một nguyên nhân cụ thể của tình hình đó.
Sự yếu kém, trì trệ trong tổ chức thực hiện không phải chỉ do phương pháp và tác phong công tác, mà chính là kết quả tổng hợp của những khuyết điểm về tư tưởng và về tổ chức, nhất là của tệ quan liêu và bảo thủ, thiếu trách nhiệm trong bộ máy với cơ chế quan liêu và bao cấp kéo dài, của những khuyết điểm về phẩm chất cách mạng và năng lực của một bộ phận cán bộ phụ trách và đảng viên ở các cấp, các ngành, cũng như của sự buông lỏng, hữu khuynh trong tổ chức chỉ đạo nhiều mặt công tác.
Khắc phục những thiếu sót về lãnh đạo và về tổ chức thực hiện không chỉ giải quyết riêng ở một khâu nào mà phải giải quyết đồng bộnhững nguyên nhân trên đây. Đặc biệt phải nghiêm chỉnh thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt của Đảng và trong quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, chống quan liêu và bảo thủ để sớm có kế hoạch và cơ chế quản lý với các chính sách, chế độ phù hợp với quy luật kinh tế và đặc điểm nền kinh tế nước ta, tạo ra thế mới trong phong trào quần chúng nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển, ổn định và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân. Phải từ đó và từ công tác bồi dưỡng, bố trí giáo dục cán bộ, phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ, trước hết là cán bộ chủ chốt từ trên xuống dưới mà giải quyết tốt các vấn đề khác về tư tưởng và về tổ chức, khắc phục các mặt tiêu cực.
Chúng ta đang phấn đấu để khắc phục các khuyết điểm sai lầm trên đây. Song thời gian còn ngắn, sức ỳ còn nặng chưa tạo ra được sự chuyển biến cần thiết.
Thật sự đạt tới một sự chuyển biến sâu sắc có tính cách mạng về tổ chức và xây dựng Đảng, về cải tiến công tác quản lý là yếu tố quyết định trước hết việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng.
II- Nhiệm vụ chung về xây dựng Đảng
Thưa các đồng chí,
Chúng ta xây dựng Đảng trong hoàn cảnh Đảng ta là đảng cầm quyền, lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước trong những điều kiện thuận lợi mới của đất nước thống nhất và của phong trào cách mạng thế giới lớn mạnh vượt bậc, nhưng đồng thời cũng có những khó khăn rất to lớn: đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa; đối phó với một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt kéo dài; hai nhiệm vụ chiến lược phải tiến hành cùng một lúc; cuộc đấu tranh giữa hai con đường ở trong nước cũng như trên phạm vi thế giới diễn ra gay gắt; nghĩa vụ quốc tế của Đảng lại rất nặng nề.
Từ thực tế tình hình của Đảng và của đất nước, từ những nhiệm vụ mới đã được đề ra trong Báo cáo chính trị, nhiệm vụ then chốt của công tác xây dựng Đảng hiện nay là: Tiếp tục nâng cao tính chất giai cấp công nhân, tính tiền phong của Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức nhằm bảo đảm thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng, nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, làm cho Đảng ta luôn luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, một đảng thật trong sạch, có sức chiến đấu cao, gắn bó chặt chẽ với quần chúng. Nhiệm vụ trên phải được tiến hành gắn liền với việc đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước, nhất là về kinh tế - xã hội, phát huy hiệu lực quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, nhằm thúc đẩy sự phát triển toàn diện của xã hội, bảo đảm cho Đảng lãnh đạo tốt cả hai nhiệm vụ chiến lược trước mắt là: thực hiện thắng lợi những mục tiêu do Đại hội đề ra cho 5 năm 1981 - 1985 và những năm 80, giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu chống cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt..., sẵn sàng ứng phó với mọi tình thế do chúng gây ra và làm tròn nghĩa vụ quốc tế của Đảng.
Đảng phải thật sự là một đảng có bản lĩnh, có kiến thức và năng lực lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là có kiến thức và năng lực về lãnh đạo quản lý kinh tế, có khả năng xây dựng Nhà nước, biết quản lý kinh tế, đời sống, quản lý xã hội có hiệu quả.
Đảng phải là một đảng rất kiên cường trong cuộc đấu tranh chống... đế quốc Mỹ và các thế lực phản động khác, đủ sức đánh bại mọi hành động phá hoại và xâm lược của chúng.
Đảng phải thật sự là một đảng có sức chiến đấu cao, đoàn kết thống nhất, trong sạch về chính trị, vững mạnh về tổ chức, thực sự gắn bó với quần chúng.
Nhằm vào những nhiệm vụ trên đây, trong 5 năm tới, phải đổi mới và tạo ra một chuyển biến sâu sắc và căn bản về công tác tư tưởng và công tác tổ chức của Đảng theo các yêu cầu sau đây:
Một là: Bảo đảm thấu suốt đường lối;
nâng cao năng lực lãnh đạo và tổ chức về mọi mặt: kinh tế, xã hội, quốc phòng và an ninh, nhất là về kinh tế.
Hai là: Cải tiến sự lãnh đạo của Đảng gắn
với việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và việc tinh giản bộ máy, khắc phục quan liêu và bảo thủ trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.
Ba là:
Củng cố cho được cơ sở đảng gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị xây dựng huyện, quận, thành phố, xã, phường, v.v., xây dựng các tổ chức sản xuất, kinh doanh, các đơn vị chiến đấu và phát động các phong trào quần chúng. Nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng; phát triển và củng cố đội ngũ của Đảng, kiên quyết đưa những phần tử cơ hội, thoái hoá, biến chất và những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng.
Bốn là:
Theo quy hoạch, tiến hành đổi mới việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, bố trí đúng và bảo đảm tính kế thừa trong việc xây dựng đội ngũ cốt cán, ra sức nâng cao phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, bảo đảm sự vững vàng của Đảng trong mọi tình thế. Đó là một điều cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng lâu dài của Đảng ta.
Năm là:
Giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết thống nhất của Đảng, thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tiến hành tự phê bình và phê bình thường xuyên trong sinh hoạt của Đảng.
Phần hai
Những nhiệm vụ, chủ trương cụ thể nhằm nâng cao chất lượng lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
I- Tăng cường mặt trận tư tưởng để củng cố đảng và nâng cao chất lượng lãnh đạo chính trị của Đảng
Thưa các đồng chí,
Trên cơ sở quán triệt đường lối của Đảng, nâng cao giác ngộ về cách mạng xã hội chủ nghĩa và rèn luyện phẩm chất cho cán bộ đảng viên, nhiệm vụ cơ bản của công tác tư tưởng là phải xây dựng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta ý chí kiên cường, quyết tâm sắt đá và trình độ hiểu biết cần thiết để làm cả hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
1. Làm quán triệt đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, nâng cao lập trường giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh giữa hai con đường
Thực tế 5 năm qua đã chỉ rõ rằng việc quán triệt đường lối, nhất là đường lối kinh tế, cũng như việc nắm thực tiễn và quy luật kinh tế không phải đơn giản. Việc đó không chỉ dừng lại ở chỗ vũ trang bằng kiến thức lý luận hoặc quan điểm chung về đường lối, mà phải kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với tình hình và kinh nghiệm thực tế trong quá trình cụ thể hoá đường lối thành bước đi, mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách, chỉ tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trước mắt và lâu dài, cũng như trong quá trình tổ chức thực hiện đường lối.
Để cụ thể hoá đường lối thành kế hoạch với mục tiêu, nhiệm vụ và chỉ tiêu đúng đắn, phải nắm vững đường lối và nắm vững thực tiễn nhằm đề ra được những quyết định có căn cứ khoa học khắc phục mọi thiên hướng chủ quan nóng vội, thoát ly thực tế, không coi trọng quy luật hoặc bảo thủ, trì trệ, thiếu tin vào quần chúng, thiếu ý chí phấn đấu vươn lên. Có như vậy thì đường lối mới được quán triệt một cách sâu sắc, mới nâng cao được tính tự giác trong việc chấp hành đường lối, vận dụng quy luật và mới làm cho công tác tư tưởng có thêm điều kiện để đi vào chiều sâu và có tính chiến đấu cao.
Những khuyết điểm về kinh tế vừa qua cho thấy rõ sau khi đã xác định đường lối chung, và đường lối kinh tế, Đảng phải có chiến lược kinh tế - xã hội để có phương hướng xác định cơ cấu kinh tế, xây dựng tốt kế hoạch kinh tế - xã hội, có cơ chế quản lý đúng, bảo đảm cho đường lối được thể hiện trong đời sống thực tế và từ đó được quán triệt ngày càng sâu sắc hơn.
Sự kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn là điều kiện cần thiết để tránh chủ quan trong việc quán triệt và cụ thể hoá đường lối.
Để làm tốt việc đó, phải triệt để khai thác một cách sáng tạo kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, những kinh nghiệm phong phú của Đảng Cộng sản Liên Xô và của các đảng anh em, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới; đồng thời phải rất coi trọng tổng kết tình hình thực tế của ta nhất là về mặt kinh tế; tổng kết các hoạt động kinh tế, rút ra được những bài học kinh nghiệm để làm cơ sở cho việc cụ thể hoá đường lối của Đảng, phát triển và làm rõ hơn nữa để nắm vững những quy luật tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ở nước ta một cách sát đúng và có sáng tạo. Phải khắc phục chủ nghĩa kinh nghiệm, coi thường lý luận cũng như chủ nghĩa giáo điều áp dụng kinh nghiệm nước ngoài một cách máy móc.
Cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý, cán bộ làm công tác tư tưởng, lý luận phải được thông tin về những vấn đề cần thiết một cách kịp thời và chính xác, đi sâu hơn nữa vào thực tế, lắng nghe hơn nữa tiếng nói của cán bộ, đảng viên và quần chúng, nhạy cảm hơn nữa với những vấn đề mới nảy sinh trong cuộc sống để đề xuất các vấn đề cần giải quyết về lý luận, chính sách.
Công tác lý luận, công tác nghiên cứu khoa học phải bám sát các mục tiêu kinh tế - xã hội, góp phần tích cực vào việc làm quán triệt, phát triển, cụ thể hoá và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối. Phải tạo điều kiện để đội ngũ cán bộ lý luận, cán bộ nghiên cứu khoa học làm tốt các việc trên một cách có tổ chức, có nguyên tắc, không để anh chị em đó đứng ngoài quá trình chuẩn bị các quyết định về kinh tế, văn hoá, xã hội của Đảng và Nhà nước.
Cùng với việc tăng cường công tác lý luận và để làm tốt việc đó, phải coi trọng tổng kết việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng. Hằng năm, mỗi cấp uỷ phải có chương trình tổng kết một số điển hình tiên tiến, một số khâu quan trọng cần thiết cho việc đẩy mạnh phong trào quần chúng.
Sắp tới, trên cơ sở quán triệt Nghị quyết của Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng và kiểm điểm việc thi hành Nghị quyết của Đại hội toàn quốc lần thứ IV, từng cấp, từng ngành, từng đơn vị phải tổng kết kinh nghiệm 5 năm qua của cấp mình, địa phương mình, đơn vị mình nhằm thống nhất hơn nữa nhận thức về đường lối của Đảng, tìm ra nguyên nhân để sửa chữa các khuyết điểm, đưa công tác của chúng ta tiến lên giành những thắng lợi to lớn hơn nữa.
Để bảo đảm cho việc quán triệt cụ thể hóa và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng phải nâng cao kiến thức về khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, đặc biệt là kiến thức về quy luật kinh tế, về quản lý kinh tế cho cán bộ, đảng viên một cách rộng rãi. Cần quy định chế độ bắt buộc cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý phải học tập những kiến thức kinh tế, làm dấy lên phong trào học tập kinh tế trong Đảng và trong nhân dân.
Để làm tốt những việc trên phải xây dựng và kiện toàn các viện và trường trực thuộc Trung ương Đảng, các viện thuộc Viện hàn lâm khoa học, các học viện; rất coi trọng kiện toàn các cơ quan làm công tác lý luận, tổ chức lại hệ thống các trường đảng, các trường quản lý, nhất là về quản lý kinh tế, các trường đại học và trung học chuyên nghiệp, cải tiến nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy và học tập ở các trường để đổi mới chất lượng học tập, tạo cơ sở cho việc thấu suốt đường lối gắn liền với nâng cao kiến thức các mặt.
Nâng cao hơn nữa vị trí của môn học chính trị, học chủ nghĩa Mác - Lênin, học đường lối của Đảng trong các trường, trong cán bộ giảng dạy và trong thanh niên học sinh, soát lại để bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ giảng viên chính trị ở các trường. Đó là một vấn đề hết sức quan trọng cho việc xây dựng lớp người mới, một khâu then chốt để làm cho hệ tư tưởng, chính trị của Đảng thực sự chiếm ưu thế tuyệt đối trong đời sống tinh thần của nhân dân ta và trở thành hệ tư tưởng của toàn dân.
Trong việc quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, phải không ngừng nâng cao tư tưởng làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng lập trường cách mạng kiên định của giai cấp công nhân
trong cuộc đấu tranh giữa hai con đường, khắc phục các thiên hướng hữu và "tả".
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa vốn là cuộc cách mạng sâu sắc và triệt để nhất. Thực tiễn 5 năm qua cho thấy rõ trong quá trình thực hiện đường lối của Đảng để đưa cách mạng đi lên, cuộc đấu tranh về tư tưởng để giải quyết vấn đề "ai thắng ai" giữa hai con đường trong điều kiện của nền kinh tế phổ biến vẫn còn là sản xuất nhỏ là hết sức gay go, phức tạp. Cuộc đấu tranh ấy đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải có giác ngộ sâu sắc về đường lối và lý tưởng của Đảng, phải vững vàng về lập trường, quan điểm, có trí thông minh, có tính sáng tạo và vươn lên về kiến thức.
Sự chủ quan, nóng vội hoặc bảo thủ, những tư tưởng của người sản xuất nhỏ và không vô sản khác như do dự trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, muốn làm giàu bằng cách vi phạm các chính sách, đối phó với luật pháp và các quy định của Nhà nước, những ảo tưởng không thấy tính gay gắt của cuộc đấu tranh giai cấp, xoá bỏ bóc lột, đã xuất hiện ở nơi này hay nơi khác, lúc này hay lúc khác trong một số cán bộ, đảng viên, cần được phê phán nghiêm khắc. Những biểu hiện đó cùng cách làm chủ quan, kém hiệu quả, xét cho cùng đều làm chậm công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Trong khi tiến công để phá vỡ cơ chế quản lý quan liêu bao cấp gò bó là một việc làm rất cần và hoàn toàn đúng, bên cạnh mặt tích cực là chính, cũng đã xuất hiện những thiên hướng lỏng lẻo không nắm vững nguyên tắc tập trung dân chủ cùng những nguyên tắc cơ bản khác về quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trong khi chúng ta nhấn mạnh thực hiện sự thống nhất giữa "ba lợi ích", khắc phục thiên hướng xem nhẹ lợi ích của người lao động (cũng là hoàn toàn đúng), lại đã xảy ra hiện tượng xem nhẹ, thậm chí xâm phạm nghiêm trọng lợi ích của toàn xã hội. Khuyết điểm của một số cấp uỷ và tổ chức cơ sở đảng là đã không đấu tranh khắc phục kịp thời những sai lầm đó.
Trong đấu tranh để tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đã xuất hiện những khuynh hướng bảo thủ hoặc nóng vội không thể hiện đúng đường lối của Đảng, những quan điểm lệch lạc không nhận rõ vai trò then chốt của cách mạng khoa học - kỹ thuật, hoặc chỉ đơn thuần nhấn mạnh vai trò của kỹ thuật, không thấy yếu tố tích cực của tư tưởng và sức mạnh của quần chúng làm chủ tập thể.
Trên các lĩnh vực văn hoá, xã hội, quân sự, an ninh, tư tưởng và tổ chức cũng vậy, trong quá trình đưa cách mạng đi lên, rõ ràng bên cạnh mặt tích cực cũng đã xuất hiện những khuyết điểm hữu khuynh mất cảnh giác, buông lỏng trận địa tư tưởng, dẫn đến buông lỏng chuyên chính, và làm cho không ít cán bộ, đảng viên, đoàn viên sa ngã, tiêm nhiễm lối sống tư sản, thực dân kiểu mới, chạy theo thị hiếu tầm thường, thoái hoá, biến chất.
Nhiệm vụ của công tác tư tưởng là phải chủ động giáo dục cho cán bộ, đảng viên đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và của Nhà nước trên mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội, xây dựng tinh thần gương mẫu chấp hành các chính sách, mẫu mực trong lối sống xã hội chủ nghĩa.
Bằng các biện pháp giáo dục, kinh tế, hành chính và tổ chức, phải tích cực khắc phục các mặt tiêu cực, xác định lập trường kiên định cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, phê phán sâu sắc những biểu hiện tư tưởng tiểu tư sản, kiên quyết chống tư tưởng tư sản, chống tàn dư văn hoá thực dân mới và tàn dư tư tưởng phong kiến. Cần phải nhận thức đầy đủ đây là một cuộc đấu tranh kiên trì, không dung hoà, không lơi lỏng.
Cần làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận rõ cuộc đấu tranh để giải quyết vấn đề "ai thắng ai" giữa hai con đường ở nước ta là một cuộc đấu tranh lâu dài và phức tạp, phải phấn đấu gian khổ mới đem lại thắng lợi vinh quang. Khó khăn còn nhiều, những người cộng sản phải có thái độ đúng trước khó khăn, không ảo tưởng, nôn nóng, phải nhận rõ ranh giới giữa hai con đường để ra sức vươn lên cùng với nhân dân khắc phục khó khăn giành bằng được thắng lợi, chống ỷ lại, bàng quan, vô trách nhiệm, dao động, hoặc chùn bước trước khó khăn.
Cần thông qua tiến hành ba cuộc cách mạng, xây dựng cơ cấu kinh tế mới và thực hiện phương thức quản lý mới mà nâng cao tư tưởng làm chủ tập thể cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, khắc phục những thiên hướng lệch lạc, hiểu không đúng về chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa; hiểu nó một cách phiến diện, chỉ nhấn mạnh dân chủ về chính trị, không thấy phải thể hiện làm chủ tập thể cả trong xây dựng cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý, cơ chế tổ chức và trong cuộc sống hằng ngày; hiểu nó một cách sai lệch, cao xa, không thấy làm chủ tập thể là chủ trương thiết thực, có thể và cần phải thực hiện ngay, không thấy làm chủ tập thể là một quá trình từ thấp lên cao, gắn liền với tiến hành các mặt công tác và việc chăm lo một cách thiết thực đời sống hằng ngày của người lao động; hiểu nó một cách cắt khúc, không thấy sự gắn bó giữa quyền lợi và nghĩa vụ, chỉ nhấn mạnh quyền lợi hoặc nghĩa vụ, không thấy sự gắn bó giữa quyền làm chủ ở tất cả các cấp, dẫn đến tập trung quan liêu, hay bản vị, cục bộ hoặc không thấy mối quan hệ giữa làm chủ tập thể với chuyên chính vô sản mà đối lập hai mặt đó với nhau. Cũng cần khắc phục thiên hướng mơ hồ về lập trường giai cấp, nói làm chủ tập thể chung chung, không thấy đó chỉ là quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
2. Xây dựng lập trường kiên định..., chống đế quốc Mỹ và các thế lực phản động khác, luôn luôn đề cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
.....
Phải xây dựng trong toàn Đảng ta tinh thần cảnh giác cách mạng sẵn sàng chiến đấu, xây dựng ý chí sắt đá, sự kiên quyết và kiên trì trong cuộc đấu tranh chống những hành động phá hoại và xâm lược nước ta...
Cần làm rõ cuộc đấu tranh này là gay go, phức tạp, lâu dài và không khoan nhượng. Lịch sử đã giao phó cho Đảng và nhân dân ta đảm nhiệm cuộc đấu tranh đó vì độc lập và tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, vì nghĩa vụ quốc tế cao cả.
Hiện nay bên cạnh các hoạt động về quân sự ở vùng biên giới ba nước Đông Dương, cuộc chiến tranh tâm lý và gián điệp do chúng tiến hành đang nhằm phá hoại kinh tế và đời sống, tư tưởng và văn hoá của nhân dân ta, đưa nọc độc chính trị phản động vào nội bộ Đảng ta, nhằm vào những người vốn bất mãn hoặc còn mơ hồ trong nhận thức về cuộc đấu tranh giai cấp.
Điều nguy hiểm hơn là từ những hoạt động hòng làm rối loạn chính trị trong nhân dân ta, chúng âm mưu kết hợp hoạt động gián điệp và lật đổ với hoạt động quân sự để chuẩn bị tiến hành chiến tranh xâm lược quy mô lớn khi điều kiện cho phép.
Nhiệm vụ của công tác tư tưởng là phải tiếp tục đề cao tinh thần độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy truyền thống yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản, tiếp tục làm rõ tính chất không khoan nhượng của cuộc đấu tranh;..., khắc phục mọi biểu hiện lơ là cảnh giác cách mạng, đề phòng mọi biểu hiện của tư tưởng thoả hiệp, tư tưởng mệt mỏi, xả hơi trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Mỗi chi bộ đảng phải là một pháo đài chiến đấu,
cảnh giác cao với mọi âm mưu và hành động của địch.
Phải nâng cao bản chất giai cấp công nhân của quân đội và lực lượng an ninh, bảo đảm cho lực lượng vũ trang và an ninh của chúng ta phát huy truyền thống mưu trí và dũng cảm, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, với mục đích và lý tưởng của Đảng, với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Tổ quốc và nhân dân, với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Các công cụ chuyên chính của Đảng và Nhà nước trước hết là các cơ quan, đơn vị quốc phòng và an ninh, phải phối hợp chặt chẽ và mài sắc cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, kiên quyết thực hiện chuyên chính với kẻ thù, không để cho kẻ địch và phần tử xấu dễ bề hoạt động lén lút hoặc công khai.
.....
3. Nắm vững nguyên tắc, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, với thực tiễn, chống quan liêu, chủ quan, bảo thủ; chấp hành nghiêm chỉnh nguyên tắc tập trung dân chủ, chống tự do vô kỷ luật, thiếu dân chủ, vô trách nhiệm
a) Phải sâu sát thực tế, nhạy cảm với cuộc sống, chống quan liêu và bảo thủ, khắc phục chủ quan, nóng vội
Liên hệ với thực tế, với quần chúng, lắng nghe ý kiến và ủng hộ sáng kiến của quần chúng, của cấp dưới, chống quan liêu, là một vấn đề thuộc về nguyên tắc cơ bản của đảng cầm quyền.
Sự trì trệ hiện nay trên nhiều lĩnh vực quan trọng, trước hết là trong kinh tế, có nguồn gốc sâu xa từ tư tưởng chủ quan bảo thủ và tệ quan liêu, một biểu hiện của sự xa rời quần chúng trong điều kiện Đảng cầm quyền.
Tư tưởng bảo thủ thường có nguồn gốc từ nhiều mặt: do không thấu suốt đường lối của Đảng, thiếu nhạy cảm với cái mới, không sát thực tế, xa rời quần chúng, không lắng nghe ý kiến của cán bộ, đảng viên, của quần chúng, hoặc có khi do chủ quan, tự mãn dẫn đến chỗ không nhạy bén, thiếu sáng tạo, không chấp nhận sự sáng tạo từ bên dưới, và trong trường hợp không tự giác thường là do thiếu kiến thức mà lại ít học tập.
Trong lĩnh vực kinh tế, bảo thủ và quan liêu đã thể hiện một cách rõ nét trong việc duy trì cơ chế hành chính quan liêu, bao cấp, những chính sách, chế độ không phù hợp với đòi hỏi mới của sản xuất và cuộc sống.
Cơ chế ấy đến lượt nó tạo ra và làm trầm trọng thêm tệ quan liêu vốn đã có trong bộ máy, tạo ra một lớp cán bộ bảo thủ, cũ kỹ, ỷ lại, vô trách nhiệm, thiếu tính năng động, thích ứng với nó, làm hạn chế khả năng của cán bộ, thậm chí bóp nghẹt sáng kiến và tính năng động cách mạng của quần chúng, bởi các quy chế gò bó và các chính sách, chế độ không hợp lý, không thể hiện đúng đường lối và quan điểm giai cấp công nhân của Đảng.
Bảo thủ thường gắn với quan liêu và quan liêu thường là nguồn gốc có tính phổ biến của tư tưởng bảo thủ. Tệ quan liêu đang gây trì trệ nghiêm trọng trong bộ máy, nó ngăn cản tiếp cận các vấn đề thực tiễn, làm cho cán bộ không sát cơ sở, không lắng nghe được ý kiến của đảng viên và quần chúng ở cơ sở, khiến cho cơ quan cấp trên thiếu nhạy bén với thực tiễn. Đó cũng là mảnh đất tốt cho sự phát triển của bệnh chủ quan nóng vội, một thiên hướng cũng cần được phê phán và khắc phục.
Phải chống quan liêu trong cán bộ, đảng viên, trước hết là từ cấp trên, trong những cán bộ thường nguội lạnh trước những yêu cầu sục sôi của sản xuất, đời sống, chiến đấu.
Tệ quan liêu biểu hiện trên nhiều lĩnh vực, nhưng chủ yếu là quan liêu trong việc đề ra chính sách, chế độ, quan liêu trong tổ chức bộ máy và trong phong cách làm việc của cán bộ.
Cần chấm dứt tình trạng quan liêu, mệnh lệnh, không thấy hết tác hại của việc dùng biện pháp hành chính đơn thuần thay cho các biện pháp kinh tế và giáo dục, quản lý kinh tế theo lối hành chính quan liêu, bao cấp: "Nuôi mọi hoạt động bằng tiền Nhà nước", làm cho mọi hoạt động của bộ máy không tính toán hiệu quả kinh tế mà chỉ cần "xin lệnh cấp phát" từ trên xuống, nhất nhất làm theo quy định gò bó đã lỗi thời, thiếu vận dụng có sáng tạo các chủ trương, biện pháp vào điều kiện mới.
Trong tư tưởng và phong cách của cán bộ, đó là tệ quan liêu hành chính, thái độ cửa quyền, làm cản trở sản xuất, gây phiền hà cho quần chúng, kìm hãm sáng kiến của cấp dưới.
Phải thấy rõ bệnh quan liêu như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói là "một thứ giặc trong lòng chúng ta", hay như V.I.Lênin nói: "Nếu có cái gì làm cho chúng ta thất bại thì chính là điều đó".
Phải có "trăm nghìn biện pháp" để chống quan liêu và bảo thủ. Trước hết, phải chỉ rõ để tìm cách khắc phục những tác hại của cơ chế hành chính quan liêu, bao cấp, cơ sở của tệ quan liêu trong kinh tế cùng những ảnh hưởng và tác động của nó đã thấm sâu vào mọi lĩnh vực công tác, mọi mặt của đời sống xã hội. Từng cơ quan, từng mặt hoạt động phải tìm ra tác hại cùng những ảnh hưởng tiêu cực đó để có biện pháp khắc phục.
Mỗi cán bộ, đảng viên, phải trau dồi cho mình quan điểm của Đảng đối với quần chúng một cách sâu sắc, gột rửa những quan điểm phong kiến, bảo thủ để xây dựng lòng tin ở khả năng sáng tạo của quần chúng, thấy rõ vai trò của quần chúng, của cơ sở, của đông đảo cán bộ, đảng viên đang lăn lộn trong cuộc chiến đấu trên mọi lĩnh vực hoạt động.
Phải xây dựng một nếp làm việc sát cơ sở, sát quần chúng, thực hiện các chế độ đi xuống dưới và cơ sở, tiếp cận với thực tế. Cán bộ lãnh đạo ở các cơ quan của Trung ương, từ Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng đến các ban, các bộ phải tổ chức tiếp cận với những nơi khó khăn, những khâu quan trọng chưa gỡ được trong sản xuất và đời sống ở cơ sở, nắm sát hơn nữa tình hình ở những vùng khác nhau, nhất là ở miền Nam, miền núi để chỉ đạo, nghiên cứu chính sách, chế độ, giải quyết một cách nhanh chóng các vấn đề do cơ sở đề ra, kịp thời tháo gỡ các gò bó, vướng mắc nghiêm trọng hiện nay.
Cần cổ vũ sáng kiến, nghiên cứu, tổng kết, phổ biến những điển hình tiên tiến xuất hiện trên mọi lĩnh vực, động viên những cán bộ hăng say với nhiệm vụ, có nhiệt tình cách mạng cao. Khuyến khích giúp đỡ những ngành, địa phương, đơn vị, những cán bộ có những sáng kiến mới để mạnh dạn làm thử cái mới hoặc sửa đổi cái lạc hậu trong phạm vi quyền hạn của mình.
Trong khi phát huy sáng kiến, rất có thể có chỗ sai sót. Thái độ tích cực là giúp cho cán bộ cấp dưới thấy rõ các thiếu sót, những chỗ chưa thích hợp để xây dựng, vun xới cho mầm non sáng kiến, dù là nhỏ, vươn lên.
Các cơ quan của Trung ương cần tổng kết từ thực tiễn để bổ sung, sửa đổi kịp thời các chính sách, chế độ, tạo điều kiện cho sáng kiến của quần chúng nảy nở, những nhân tố tích cực sớm được nhân lên.
b)Nghiêm chỉnh chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, tăng cường kỷ luật, đề cao trách nhiệm
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản về xây dựng Đảng của Lênin. Vi phạm nguyên tắc ấy là làm suy yếu tổ chức đảng, và đối với một đảng cầm quyền, đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến buông lỏng chuyên chính hoặc rơi vào tệ quan liêu, vi phạm quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
Chống bảo thủ, quan liêu, chủ quan, ủng hộ sáng kiến của cấp dưới, của cơ sở, tổng kết từ thực tiễn để đổi mới cơ chế quản lý, sửa đổi các chính sách, chế độ là biểu hiện tích cực của việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng và của Nhà nước ta. Nguyên tắc này đòi hỏi phải bảo đảm vừa có kỷ luật chặt chẽ, vừa có dân chủ rộng rãi và dân chủ cũng phải nhằm tạo nên sức mạnh của tổ chức, tính kỷ luật của tổ chức.
Thể hiện nguyên tắc đó trong điều kiện Đảng nắm chính quyền chính là phải bảo đảm cho đường lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng, các quy tắc sinh hoạt đảng, kế hoạch nhà nước và pháp chế nhà nước được xây dựng sát đúng và được triệt để chấp hành; phải trên cơ sở xác định rõ chế độ trách nhiệm của tổ chức và của mỗi người, phân rõ trách nhiệm quản lý giữa trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới mà giữ vững tập trung, mở rộng dân chủ.
Trong Đảng ta có rất nhiều gương tốt về chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, về giữ gìn kỷ luật của Đảng, tuân thủ pháp luật nhà nước. Song bên cạnh những gương tốt, những mặt tích cực, vẫn bộc lộ những mặt tiêu cực, vừa tự do vô kỷ luật, vừa mất dân chủ. Tình hình hạn chế dân chủ hoặc dân chủ hình thức vẫn còn nặng.
Phải thừa nhận rằng tình hình tự do vô kỷ luật trong thời gian qua có chiều hướng phát triển trước những khó khăn của đất nước, trước sự tấn công của chiến tranh tâm lý của địch.
Có một số cán bộ, đảng viên đã tuỳ tiện phát ngôn về đường lối, chính sách của Đảng; họ không chấp hành nghị quyết hoặc chỉ chấp hành những điểm mình tán thành mà không xin ý kiến cấp trên. Chúng ta khuyến khích toạ đàm, hội thảo, sinh hoạt khoa học để nâng cao chất lượng nghiên cứu, nhưng phải có lãnh đạo chặt chẽ. Chúng ta khuyến khích cán bộ đề đạt ý kiến với lãnh đạo, nhưng việc đó phải làm một cách có tổ chức với mục đích xây dựng.
Tình trạng tự do vô kỷ luật trong một số cán bộ là nghiêm trọng và đang làm yếu sự chặt chẽ về tổ chức của Đảng. Sự lỏng lẻo đó đều bắt nguồn từ chỗ thiếu tính nguyên tắc, thiếu ý thức chấp hành kỷ luật của Đảng, phápnluật nhà nước.
Giữ gìn kỷ luật của Đảng, chấp hành pháp luật nhà nước là bắt buộc đối với mọi đảng viên, là vấn đề thuộc về tính đảng, không có ngoại lệ. Tăng cường kỷ luật đối với Đảng ta càng phải là một vấn đề thường xuyên, không được xem nhẹ, còn vì nền kinh tế sản xuất nhỏ và chiến tranh du kích kéo dài đã để lại trong nhiều cán bộ, đảng viên những dấu ấn tiêu cực về cách suy nghĩ, những thói quen và tập quán lạc hậu, cách làm việc tuỳ tiện, tính bản vị, cục bộ, địa phương chủ nghĩa, thiếu hợp tác xã hội chủ nghĩa. Nhiều đồng chí chúng ta đã phạm khuyết điểm tự do vô kỷ luật do chưa được rèn luyện trong kỷ luật của nền sản xuất đại công nghiệp, lại sống trong biển người của sản xuất nhỏ mà không coi trọng tự rèn luyện mình theo đường lối quan điểm của Đảng.
Chúng ta nhận rõ rằng muốn có kỷ luật chặt chẽ thì phải mở rộng dân chủ thật sự, muốn có tập trung tốt thì phải phân cấp đúng, chỉ với cơ chế quản lý đúng thì mới có kỷ luật chặt chẽ. Song đối với mọi đảng viên thì bao giờ cũng phải hành động trong phạm vi kỷ luật tổ chức, phải báo cáo, xin ý kiến kịp thời, phải chấp hành nghị quyết, chỉ thị một cách đúng đắn và sáng tạo.
Nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác tổ chức đã nhấn mạnh kỷ luật chấp hành nghị quyết, kỷ luật phát ngôn, kỷ luật báo cáo, xin chỉ thị, kỷ luật giữ gìn bí mật của Đảng và của Nhà nước. Phải có biện pháp thi hành các chế độ giữ gìn kỷ luật đó ở mỗi cơ quan, đơn vị.
Kỷ luật của Đảng bao giờ cũng phải trên cơ sở phát huy dân chủ nội bộ.
Trong bộ máy của Đảng và Nhà nước ta, tệ độc đoán, chuyên quyền, bệnh gia trưởng phong kiến còn khá nặng. ở những cơ quan, đơn vị có cán bộ phụ trách mắc căn bệnh đó thì thường tính chủ động, sáng tạo và năng lực của cán bộ, đảng viên và quần chúng bị kìm hãm, họ thường sợ sệt, không dám phê bình người phụ trách hoặc nể nang e dè, bỏ qua cho xong chuyện khuyết điểm của cơ quan, đơn vị, nhất là của người phụ trách. ở đó, quyền làm chủ tập thể chỉ là hình thức, tiếng nói của những người tích cực, dám thẳng thắn đấu tranh thường bị xem là "tiêu cực". ở đó, thường xảy ra những biểu hiện cơ hội chủ nghĩa, thói nịnh hót, bợ đỡ, "gió chiều nào che chiều ấy", "kéo bè, kéo cánh", gây mất đoàn kết. ở đó, thường không tránh khỏi hiện tượng trù dập tinh vi hoặc trắng trợn đối với những cán bộ dám thẳng thắn đấu tranh.
Phải thừa nhận một thực tế không đúng đắn là những hiện tượng tự do vô kỷ luật có khi bắt nguồn từ chỗ ra các quyết định không chính xác, không tiến hành trên cơ sở dân chủ.
Chúng ta phải sửa tình trạng mất dân chủ trước hết từ trong việc chuẩn bị và ra quyết định ở các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ trung ương đến cơ sở, đồng thời phải giữ vững kỷ luật trong việc chấp hành các quyết định. Việc xây dựng quy chế làm việc, kiện toàn tổ chức, sửa đổi cách chuẩn bị và ra các quyết định của các cơ quan lãnh đạo, các cơ quan tham mưu của Đảng và Nhà nước có ý nghĩa quan trọng về mặt này.
Cần xây dựng thành nền nếp và bằng chế độ việc lấy ý kiến của cấp dưới trước khi ra một quyết định quan trọng có liên quan rộng rãi đến hoạt động kinh tế, đời sống.
Phải lên án mạnh mẽ, kiểm tra chặt chẽ để sớm kết luận và ngăn chặn các trường hợp thành kiến, trù dập cán bộ và có kỷ luật nghiêm khắc đối với người phạm sai lầm đó. Các cấp uỷ và cơ quan kiểm tra phải hết sức cương quyết, công minh. Các chi bộ, các đảng uỷ phải giữ vững bản chất trong sáng của Đảng, phải bảo vệ chân lý, đấu tranh chống trù dập và mọi biểu hiện bất công, dìm sáng kiến, chèn ép cán bộ và thành kiến đối với cán bộ.
Trong Đảng phải vừa phát huy dân chủ thật sự, vừa đề cao kỷ luật sắt, thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình từ Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy đảng đến chi bộ.
Việc giáo dục nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng phải gắn liền với xây dựng các chế độ công tác và tiến hành trên cơ sở đổi mới cơ chế quản lý, nhất là về kinh tế. Trong Đảng cần có những đợt sinh hoạt về Điều lệ Đảng; qua các đợt sinh hoạt đó cần liên hệ tự kiểm điểm và phê bình cấp trên trong việc thực hiện các quy định của Điều lệ Đảng về nhiệm vụ và quyền của đảng viên, về nguyên tắc tập trung dân chủ, về thực hiện chế độ báo cáo từ trên xuống và từ dưới lên, về tự phê bình và phê bình, v.v..
Tăng cường kỷ luật, mở rộng dân chủ vừa là điều kiện, vừa là kết quả tất yếu của đề cao trách nhiệm.
Cần đề cao trách nhiệm của cá nhân và trách nhiệm của tập thể; không thể kéo dài tình trạng vô trách nhiệm hiện nay.
Việc xây dựng và hoàn thiện các điều lệ, chức trách, quy chế tổ chức, xác định rõ trách nhiệm của từng cấp, từng ngành, từng tổ chức và từng cá nhân một cách rõ ràng và rành mạch là điều kiện tối cần thiết để làm cho guồng máy của Đảng, Nhà nước và mỗi cán bộ, đảng viên, nâng cao trách nhiệm của mình. Việc này phải được tiến hành ráo riết. Trong hai năm 1982 - 1983, phải tiến hành xây dựng bằng được quy chế tổ chức của cơ quan và đơn vị từ Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng đến các đơn vị cơ sở và làm xong việc xây dựng tiêu chuẩn nghiệp vụ của các chức danh chính trong mỗi tổ chức.
Cùng với các biện pháp tổ chức, trên mặt trận tư tưởng, việc phát huy yếu tố tinh thần nhằm đề cao trách nhiệm không thể bị xem nhẹ.
Sự giác ngộ về lý tưởng, ý thức làm chủ tập thể, nhiệt tình cách mạng, tinh thần trách nhiệm và ý thức hợp tác xã hội chủ nghĩa cao, bao giờ cũng là động lực để phát huy mạnh mẽ chế độ trách nhiệm đã được quy định bằng các biện pháp tổ chức và được tạo điều kiện bằng các yếu tố vật chất.
Để thật sự đề cao trách nhiệm, phải đánh giá, nhận xét ưu điểm; biểu dương, khen thưởng những tổ chức và người làm tốt trách nhiệm, phát hiện khuyết điểm và quy trách nhiệm rõ ràng để giáo dục, thi hành kỷ luật kịp thời đối với những tổ chức và người làm việc tắc trách, vô trách nhiệm.
Trong Đảng, trong bộ máy nhà nước, kỷ luật phải bình đẳng không có ngoại lệ với bất kỳ ai. Khen thưởng phải kịp thời và công bằng. Càng giữ chức vụ cao, càng được rèn luyện lâu năm trong Đảng nếu phạm kỷ luật thì việc thi hành kỷ luật càng phải nghiêm khắc. Vi phạm kỷ luật nhà nước thì phải xử lý về mặt hành chính, phạm pháp luật thì phải xử lý theo pháp luật, không được châm chước để xử lý trong nội bộ Đảng nhằm bao che cho nhau. Sự quan tâm của cơ quan và người lãnh đạo trong việc động viên khen thưởng về tinh thần và vật chất cũng như trong việc giữ vững kỷ luật nghiêm minh của Đảng, kỷ luật và pháp luật nhà nước là một điều không bao giờ được xem nhẹ.
4. Rèn luyện phẩm chất cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân
Chất lượng lãnh đạo và uy tín của Đảng chính là đường lối đúng đắn và ở hiệu quả thực hiện đường lối ấy. Song một yếu tố cũng rất quan trọng để bảo đảm cho đường lối sát đúng, được thực hiện tốt và để giữ vững uy tín của Đảng là phẩm chất của cán bộ, đảng viên trong công tác, trong cuộc sống tập thể và cá nhân.
Đã là đảng viên thì phải phấn đấu không mệt mỏi cho lý tưởng, sẵn sàng hy sinh vì lý tưởng
. Phải sống trong sạch; phải là người tiêu biểu nhất cho con người mới xã hội chủ nghĩa. Người cộng sản phải là tấm gương sáng để quần chúng noi theo. Cán bộ, đảng viên từ uỷ viên Trung ương Đảng đến mọi đảng viên ở cơ sở phải là những chiến sĩ tiên phong, gương mẫu về mọi mặt để tập hợp được quần chúng thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Thời gian qua, trong lúc cả đội ngũ đông đảo tiến lên phấn đấu quên mình vì sự nghiệp cao cả của Đảng, của Tổ quốc thì một bộ phận cán bộ, đảng viên sa sút về phẩm chất đã làm giảm uy tín của Đảng, làm yếu hiệu lực tổ chức thực hiện đường lối của Đảng. Điều đáng chú ý là trong bộ phận ấy đã có một số cán bộ cấp cao và cấp trung, những đảng viên đã lăn lộn nhiều năm trong đấu tranh chống địch, kể cả từ trước Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến chống Pháp.
Sự sa sút về phẩm chất, sự thoái hoá trong lối sống, quan liêu hoá trong tác phong thường xuất phát từ chủ nghĩa cá nhân. Những mặt tiêu cực đó càng phát triển nghiêm trọng trong một số cán bộ do ảnh hưởng của lối sống theo kiểu tư sản và của chủ nghĩa thực dân mới từ sau khi đất nước được hoàn toàn giải phóng.
Chủ nghĩa cá nhân cùng những ảnh hưởng của tư tưởng tư sản và của chủ nghĩa thực dân kiểu mới đã làm mất ý chí chiến đấu của nhiều cán bộ, đảng viên; họ làm sai chính sách, bỏ nhiệm vụ, thậm chí đi vào buôn bán kiếm lời, tham gia bóc lột, tham ô, ăn hối lộ, chiếm đoạt của công, thông đồng với gian thương, ăn chơi truỵ lạc, v.v.. Mấy năm vừa qua, Đảng đã thi hành kỷ luật nghiêm khắc và đưa những người nói trên ra khỏi Đảng. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là vẫn còn một số cán bộ, đảng viên phạm sai lầm, nhất là thiếu tinh thần trách nhiệm, vi phạm phẩm chất, trong đó có những cán bộ giữ cương vị phụ trách, vẫn chưa được phê phán hoặc thi hành kỷ luật một cách nghiêm túc.
Chúng ta cho rằng trước những khó khăn về đời sống và các mặt tiêu cực ngoài xã hội, khuyết điểm của chúng ta là đã thiếu biện pháp đồng bộ có hiệu lực về kinh tế, hành chính và giáo dục để giải quyết kịp thời.
Song đối với người đảng viên thì trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không được buông lỏng rèn luyện, bỏ danh hiệu cao cả của người cộng sản, xa rời vị trí chiến đấu của mình.
Đảng phải đặc biệt coi trọng việc tổ chức học tập một cách có hệ thống tư tưởng, đạo đức tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong toàn Đảng.
Phải nâng cao nhiệt tình cách mạng, chống sa sút về phẩm chất, chống chủ nghĩa cá nhân, tư lợi cá nhân, xem trọng tiền tài, lợi ích phi pháp hơn là danh dự con người, lý tưởng của người đảng viên cộng sản, hơn cả sinh mệnh chính trị của người chiến sĩ cách mạng.
Chúng ta phải bằng hành động thực tế bác bỏ luận điệu sai lầm cho rằng quan liêu hoá, thoái hoá là bệnh tất yếu của đảng cầm quyền. Hoàn toàn có thể ngăn chặn tình trạng đó bằng các biện pháp đồng bộ mà chúng ta đã đề ra. Phải rất coi trọng cải tiến quản lý kinh tế, coi trọng việc dựa vào quần chúng để kiểm tra bộ máy; phải tăng cường giáo dục, tăng cường kiểm tra của Đảng và Nhà nước. Phải nghiêm cấm đặc quyền, đặc lợi; nghiêm cấm các cơ quan có quyền nắm trong tay vật tư, tài chính lại tự định ra chế độ riêng cho mình và cho cán bộ dưới quyền; nghiêm cấm quỹ đen; chấm dứt chè chén bê tha, lấy của công để chia nhau trong nội bộ. Các chi bộ phải giám sát việc đó thật chặt chẽ.
Phải giúp đỡ cán bộ, đảng viên mà đời sống có khó khăn; song tư cách của một đảng viên không cho phép vi phạm đạo đức cộng sản.
Cần nhấn mạnh một điều quan trọng là cơ quan quản lý cán bộ, đảng viên phải kịp thời giúp họ sửa chữa khuyết điểm ngay từ khi nó mới chớm nở; các chi bộ và cấp uỷ phải nghiêm khắc làm tròn trách nhiệm của mình là phải loại ra khỏi Đảng trước hết những ai ức hiếp quần chúng, tham ô, ăn hối lộ, bóc lột, bất cứ người đó giữ cương vị gì và phải tìm mọi biện pháp để chấm dứt tình trạng đó.
5. Siết chặt hàng ngũ, tăng cường đoàn kết toàn Đảng
Bài học lịch sử của Đảng ta và của các đảng anh em đều chỉ rõ rằng sức mạnh vô địch của Đảng Mác - Lênin là ở sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Sự đoàn kết thống nhất ấy phải dựa trên đường lối chính trị đúng đắn và những nguyên tắc tổ chức sinh hoạt của Đảng, được củng cố bằng tình cảm cách mạng trong sáng của những người cùng chung lý tưởng.
Truyền thống đoàn kết toàn Đảng từ trước đến nay luôn luôn vẫn là một nguyên nhân cơ bản của những thắng lợi to lớn của Đảng và nhân dân ta.
Những năm gần đây, trước bước ngoặt của cách mạng, bên cạnh những ưu điểm, thành tích, chúng ta có những khuyết điểm. Trước những khuyết điểm ấy và những khó khăn mà cách mạng đang gặp phải, trong Đảng ta có những ý kiến khác nhau về vấn đề này hay vấn đề khác trong việc cụ thể hoá đường lối, trong đánh giá tình hình và xác định nguyên nhân của khuyết điểm.
Có những ý kiến khác nhau như vậy là điều bình thường. Vấn đề quan trọng là phải thảo luận kỹ để đánh giá đúng ưu điểm, khuyết điểm, làm rõ những nguyên nhân cơ bản của tình hình, tổng kết từ thực tế những vấn đề lý luận và thực tiễn đang có ý kiến khác nhau để tăng cường nhất trí cao hơn nữa, giải quyết những mắc mứu về nhận thức và đề ra những chính sách, chủ trương phù hợp với tình hình mới, không để kéo dài tình trạng ấy. Chúng ta đang làm việc đó.
Trong thời gian tới, Bộ Chính trị, Ban Bí thư sẽ có chương trình tổ chức thảo luận để tổng kết một cách kỹ lưỡng những vấn đề cần có sự nhất trí cao, tạo cho mọi đồng chí tham gia các cuộc thảo luận nói lên một cách thẳng thắn ý kiến của mình. Việc đó là rất cần thiết để tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng và nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng. Phải làm những việc đó một cách có tổ chức, nhằm mục tiêu giải quyết vấn đề, đưa phong trào quần chúng đi lên. Sự đoàn kết thống nhất của Đảng đòi hỏi toàn Đảng phải chấp hành đúng nguyên tắc tổ chức của Đảng; đối với những vấn đề đã thành nghị quyết của tập thể thì chỉ có một quyết tâm, một tiếng nói và một hành động. Trong Đảng tuyệt đối không được bè phái. "Giữ gìn sự đoàn kết thống nhất của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình" theo lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nghĩa vụ tuyệt đối đối với mọi đảng viên. Chia rẽ, bè phái phải coi là phạm tội lớn nhất đối với Đảng, đối với nhân dân.
Trong tình hình mới, thái độ đúng mức của mỗi đảng viên là góp phần khắc phục khó khăn, nghiên cứu kỹ các vấn đề để đề đạt ý kiến với Đảng, không tùy tiện phát ngôn, cũng không bàng quan, vô trách nhiệm.
Việc thảo luận các dự thảo văn kiện của Trung ương trình Đại hội toàn quốc ở đại hội các cấp và cơ sở vừa qua đã khẳng định một cách mạnh mẽ rằng tuyệt đại đa số đảng viên có ý thức chăm lo giữ gìn sự đoàn kết thống nhất của Đảng, nhất trí với đường lối đúng đắn của Đảng, biết sử dụng quyền dân chủ một cách đúng đắn để đóng góp ý kiến với Trung ương về các vấn đề chung của toàn Đảng. Điều đó thể hiện sức mạnh đoàn kết thống nhất của Đảng ta.
Tuy nhiên, trong Đảng cũng có những đồng chí tuy có ý thức tốt, nhưng do phương pháp tư tưởng hoặc thái độ, tác phong chưa tốt, nên đã tỏ ra thiếu khách quan, kém bình tĩnh, chỉ đứng ở vị trí của mình để phê phán cấp trên hoặc cấp dưới, không thấy thiếu sót về phần mình, không tìm hiểu kỹ ý kiến của đồng chí khác, phát biểu thiếu cân nhắc, gây nên tình trạng kém đoàn kết. Chúng ta cần giúp đỡ các đồng chí đó để có cách nhìn, cách giải quyết vấn đề cho đúng mức.
Điều nguy hiểm là có một số phần tử cơ hội đang lợi dụng lúc Đảng gặp khó khăn để thực hiện mưu đồ riêng tư. Họ đả kích lãnh đạo, thông tin sai lệch để gây hoang mang trong nội bộ. Có những phần tử cơ hội nịnh bợ, luồn cúi, lựa gió theo chiều để lấy lòng người này, người kia, họ đề cao người này, nói xấu người khác để hòng gây chia rẽ, bè phái. Bè phái chính là đặc trưng của chủ nghĩa cơ hội. Bọn cơ hội về quan điểm tư tưởng là không có tính nguyên tắc; về lý luận, thường nguỵ biện; về hành động, theo chủ nghĩa thực dụng.
Phải siết chặt kỷ luật của Đảng, thanh lọc ra khỏi Đảng những phần tử cơ hội, gây chia rẽ.
Một số phần tử... đã phản bội Tổ quốc, chạy sang hàng ngũ địch làm tay sai cho chúng để chống phá cách mạng, đang tìm cách lôi kéo những phần tử bất mãn, những người còn mơ hồ về vấn đề dân tộc để chia rẽ nội bộ ta, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng hòng xây dựng lực lượng phản cách mạng... để ngấm ngầm phá hoại ta về mọi mặt.
.....
Lại có một số phần tử cơ hội đã bị đưa ra khỏi Đảng đang tìm cách chia rẽ nội bộ Đảng ta. Chúng xuyên tạc một cách trắng trợn đường lối, chính sách của Đảng, phủ nhận thành quả cách mạng, bôi đen thành tích và xuyên tạc đường lối quốc tế của Đảng hòng chia rẽ tình đoàn kết quốc tế của Đảng và nhân dân ta với đảng và nhân dân các nước anh em... Phải đập tan những luận điệu đó của chúng.
6. Không ngừng tăng cường đoàn kết quốc tế và giáo dục tinh thần quốc tế vô sản cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
Trung thành với chủ nghĩa quốc tế vô sản, Đảng luôn đấu tranh chống mọi khuynh hướng sôvanh nước lớn hoặc ích kỷ dân tộc và cho rằng trong thời đại ngày nay, lợi ích chân chính của bất cứ dân tộc nào cũng không thể tách rời khỏi lợi ích của cộng đồng xã hội chủ nghĩa, của phong trào cách mạng thế giới mà Liên Xô là trụ cột. Chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản cao quý.
Đảng ta đã không ngừng củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và sự hợp tác toàn diện Việt Nam - Liên Xô, coi đó là "nguyên tắc, là chiến lược đồng thời là tình cảm cách mạng". Liên Xô đã không ngừng giúp ta xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự giúp đỡ ấy là hết sức to lớn. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Đi theo con đường của Lênin vĩ đại đã vạch ra, con đường của Cách mạng Tháng Mười, nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi rất to lớn. Chính vì vậy mà mối tình gắn bó và lòng biết ơn của nhân dân Việt Nam đối với Cách mạng Tháng Mười vẻ vang, đối với Lênin vĩ đại và đối với nhân dân Liên Xô là vô cùng sâu sắc". Đảng và nhân dân ta mãi mãi phải tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và mối quan hệ hợp tác toàn diện với Liên Xô. Đó còn là nghĩa vụ quốc tế vô sản cao quý của Đảng ta đối với việc tăng cường hệ thống xã hội chủ nghĩa và đối với đấu tranh cho hoà bình và chủ nghĩa xã hội trên thế giới.
Đảng ta đã không ngừng củng cố và tăng cường quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào - Campuchia, coi đó là một quy luật của sự phát triển của cách mạng ba nước, là điều có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của ba dân tộc. Đó là tình cảm cách mạng trong sáng và sự gắn bó lâu đời giữa ba đảng và nhân dân ba nước. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải thường xuyên vun đắp cho tình đoàn kết, sự liên minh chiến đấu và mối quan hệ đặc biệt ấy.
Đảng ta cũng đã không ngừng củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu, sự hợp tác anh em giữa Việt Nam và các nước khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, luôn luôn biết ơn đối với sự giúp đỡ của Đảng, Nhà nước và nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em và không ngừng giữ vững tình cảm chân thành đối với những người anh em cùng chung lý tưởng.
Sự đoàn kết hợp tác trên đây là sức mạnh vô địch không một thế lực phản động nào có thể phá vỡ nổi. Tất cả bọn cơ hội và phản động đang tìm cách xuyên tạc đường lối đoàn kết quốc tế của Đảng ta nhằm phá hoại sự đoàn kết hợp tác trên đây, nhất định sẽ thất bại.
Toàn Đảng, toàn dân phải coi tình đoàn kết chiến đấu và sự hợp tác toàn diện với Liên Xô, Lào, Campuchia và các nước xã hội chủ nghĩa anh em là một nguyên tắc, một vấn đề có ý nghĩa về chiến lược của đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đó cũng là điều kiện sống còn của cách mạng nước ta, là nghĩa vụ quốc tế tất yếu đối với giai cấp công nhân và nhân dân thế giới, đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế mà Đảng ta luôn luôn phấn đấu để làm tròn.
Phải giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu một cách sâu sắc quan điểm và đường lối quốc tế của Đảng ta.
Phải không ngừng giáo dục tinh thần quốc tế vô sản cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, khắc phục mọi tư tưởng dân tộc hẹp hòi hoặc dân tộc nước lớn.
Mọi lời nói và việc làm của cán bộ, đảng viên phải không ngừng góp phần tăng cường đoàn kết thống nhất của Đảng, góp phần vun đắp cho tình đoàn kết quốc tế.
Thưa các đồng chí,
Những nhiệm vụ, nội dung trên đây về tăng cường mặt trận tư tưởng của Đảng nhằm củng cố Đảng và nâng cao chất lượng lãnh đạo chính trị của Đảng cũng chính là những nội dung chủ yếu của việc giáo dục về tính chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng.
Rõ ràng tăng cường mặt trận tư tưởng của Đảng là yếu tố cực kỳ quan trọng để tạo nên sức mạnh về tinh thần và về vật chất. Đó cũng là một yếu tố hết sức quan trọng để nâng cao chất lượng lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Phải nâng cao tính đảng, tính khoa học của công tác tư tưởng, làm cho công tác này thật sự có hiệu lực.
Toàn Đảng phải làm công tác tư tưởng, mọi đảng viên đều phải làm công tác tư tưởng, phải thấy rõ vị trí của mình trên mặt trận tư tưởng và chủ động làm tròn trách nhiệm của chính mình.
Tổ chức đảng, trước hết là các cấp uỷ đảng, các chi bộ, các ban tuyên huấn và các ban khác ở các cấp, các ngành đều phải làm công tác tư tưởng. Phải đổi mới phương thức làm công tác tư tưởng, biết phối hợp tất cả các cơ quan, các ban, các ngành, các đoàn thể, sử dụng tất cả các công cụ thông tin, văn hoá, văn học, nghệ thuật, giáo dục, v.v. để làm công tác tư tưởng; phải gắn chặt công tác tuyên truyền, giáo dục với công tác tổ chức và tổng kết thực tiễn để làm công tác tư tưởng.
II- Hoàn thiện cơ cấu tổ chức, xây dựng đội ngũ
của Đảng đáp ứng hai nhiệm vụ chiến lược
Thưa các đồng chí,
Việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức, xây dựng đội ngũ của Đảng để đáp ứng hai nhiệm vụ chiến lược đòi hỏi toàn Đảng phải có quyết tâm cao, có nhận thức mới nhằm thực hiện bằng được những nhiệm vụ cụ thể sau đây về công tác tổ chức.
1. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng kết hợp chặt chẽ với phát huy hiệu lực quản lý của Nhà nước và thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động
Vai trò ngày càng tăng của Đảng Mác - Lênin đã trở thành quy luật chung trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề then chốt và cấp bách của Đảng ta hiện nay là phải nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, nhất là lãnh đạo về kinh tế - xã hội. Để làm tốt việc đó và để xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc, một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của Đảng là phải lãnh đạo xây dựng và tăng cường bằng được bộ máy nhà nước, phát huy một cách tốt nhất hiệu lực của bộ máy nhà nước, đồng thời phải chăm lo củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn thể quần chúng.
Điều lệ Đảng đã quy định và Hiến pháp mới đã thể chế hoá nội dung cơ bản của nguyên tắc "Đảng lãnh đạo, nhân dân lao động làm chủ tập thể, Nhà nước quản lý". Đó là cơ sở để tiếp tục cụ thể hoá mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở từng cấp, từng ngành, từng đơn vị, thành các nguyên tắc, chế độ, nền nếp hoạt động để giải quyết đúng đắn các vấn đề cụ thể trong mối quan hệ giữa các tổ chức đảng và cơ quan nhà nước, giữa Nhà nước với nhân dân.
a) Đảng lãnh đạo mọi tổ chức trong hệ thống chuyên chính vô sản. Đảng lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức quần chúng một cách toàn diện bằng đường lối và các chính sách của Đảng, bằng các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về mục tiêu phấn đấu, chủ trương và chính sách lớn, các biện pháp chủ yếu, các vấn đề lớn về tổ chức và cơ chế hoạt động của Nhà nước, quyết định những vấn đề quan trọng nhất về tổ chức và cán bộ. Đảng lãnh đạo bằng công tác giáo dục chính trị, công tác tổ chức vận động quần chúng và làm cho mọi đảng viên đứng ở vị trí tiên phong trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Đảng lãnh đạo bằng kiểm tra tổ chức chính quyền và các tổ chức khác trong hệ thống chuyên chính vô sản thực hiện đường lối, chính sách, các nghị quyết của Đảng, pháp luật nhà nước, phối hợp chặt chẽ hoạt động của các tổ chức đảng, nhà nước và đoàn thể, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chuyên chính vô sản hướng vào mục tiêu chung.
Từ những nguyên tắc chung trên đây, chúng ta cần căn cứ vào đặc điểm của từng cấp, từng loại cơ sở, từng lĩnh vực công tác để xác định một cách cụ thể nội dung lãnh đạo của tổ chức đảng cho thật phù hợp, không máy móc, giản đơn.
Cần nắm vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, không được buông lỏng lãnh đạo, nhưng cần có ý thức rằng sự lãnh đạo của Đảng bao giờ cũng dựa trên cơ sở phát huy đầy đủ hiệu lực quản lý của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước không phải là người thừa hành một cách bị động và vụn vặt các công việc do Đảng đề ra.
Cần nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước
. Thực tiễn đã chỉ rõ: Đảng chỉ có thể đạt được những thành tựu trong lãnh đạo kinh tế và toàn xã hội nếu biết kiện toàn mạnh mẽ Nhà nước và đề cao một cách có ý thức vai trò quản lý của Nhà nước với chức năng chủ yếu là cụ thể hoá, thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành kế hoạch nhà nước, thành pháp luật, thành chính sách, chế độ, biện pháp cụ thể và tổ chức thực hiện các chủ trương chính sách ấy.
Quản lý bằng pháp luật là phương thức quản lý riêng của Nhà nước. Song cùng với phương thức ấy, Nhà nước còn quản lý bằng giáo dục, bằng tổ chức, bằng vận động, thuyết phục. Một vấn đề lớn trong việc bảo đảm chức năng quản lý của Nhà nước hiện nay là phải tăng cường mạnh mẽ và nhanh chóng pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước phải quản lý toàn diện, biết điều hành guồng máy một cách nhịp nhàng và có hiệu quả. Pháp luật, các chính sách, chế độ, thể chế nhà nước phải được mọi người, trước hết là mọi cán bộ, đảng viên chấp hành nghiêm chỉnh. Tổ chức đảng không thể và không được làm thay công việc của cơ quan nhà nước.
Các cấp uỷ đảng cần phát huy tối đa vai trò của Nhà nước trong việc tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng, đồng thời tăng cường sử dụng cơ quan nhà nước trong việc phối hợp với các ban của Đảng để làm tham mưu cho Đảng, khắc phục thiên hướng xem nhẹ vai trò của Nhà nước còn khá nặng ở nhiều cấp, nhiều ngành.
b) Cần khắc phục một cách kiên quyết và dứt khoát tình trạng lẫn lộn chức năng giữa cơ quan đảng và cơ quan nhà nước kéo dài đã từ lâu.
ở cấp trung ương, cần xác định rõ hơn nữa những vấn đề về kinh tế, xã hội cần đưa ra Bộ Chính trị quyết định thông qua; trách nhiệm của Ban Bí thư đối với việc chuẩn bị các quyết định của Ban Chấp hành Trung ương và của Bộ Chính trị; tăng cường hơn nữa trách nhiệm kiểm tra của Ban Bí thư đối với các cơ quan nhà nước cấp trung ương. Trên cơ sở đó, phát huy trách nhiệm, quyền hạn của Hội đồng Bộ trưởng và các bộ.
ở các bộ, việc thành lập các ban cán sự có ý nghĩa thực tiễn trong thời gian trước đây khi mà đất nước mới thống nhất, các đảng uỷ cơ quan chưa được củng cố. Song ngược lại cũng đã gây tác dụng tiêu cực là không đề cao được uy tín và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, phần nào gây nên sự dựa dẫm và không rõ ràng về trách nhiệm của người phụ trách. Để xác định rõ hơn chế độ trách nhiệm ở các cơ quan nhà nước, chúng ta sẽ không thành lập các ban cán sự ở các bộ, các sở. ở các bộ sẽ thực hiện đúng chế độ thủ trưởng dựa trên một tập thể Hội đồng của bộ gồm bộ trưởng, các thứ trưởng và một số thành viên theo quy định của Nhà nước chủ yếu để làm tư vấn cho bộ trưởng. Hội đồng Bộ trưởng sẽ quy định rõ nội dung các vấn đề phải đưa ra bàn bạc ở tập thể tổ chức này và các chế độ cần thiết khác, bảo đảm trong khi phát huy đầy đủ trách nhiệm của người phụ trách, ngăn chặn được hiện tượng độc đoán, thiếu chu đáo, thiếu tập thể, nhất là đối với các vấn đề về nhiệm vụ kế hoạch, các chính sách, các vấn đề lớn về tổ chức, cán bộ. ở các sở cũng cần định rõ chế độ sinh hoạt giữa thủ trưởng và các đồng chí giữ chức phó theo hướng trên.
Cần tăng cường công tác kiểm tra của Đảng ở các bộ, các sở bằng cách nâng cao trách nhiệm của các ban của Trung ương và của cấp uỷ đảng, bố trí đúng bí thư và cán bộ chủ chốt trong đảng uỷ cơ quan, bảo đảm chất lượng kiểm tra của đảng uỷ và chi bộ cơ quan theo một quy định cụ thể của Trung ương. Việc đề bạt cán bộ ở các bộ, các sở vẫn phải bảo đảm do một tập thể có thẩm quyền quyết định hoặc chuẩn y theo quy định của Trung ương.
Các đồng chí bộ trưởng, giám đốc sở được Trung ương hoặc cấp uỷ giao trách nhiệm giúp các bí thư đảng uỷ ở các đơn vị cơ sở trực thuộc bộ hoặc tỉnh, thành phố quán triệt nhiệm vụ công tác của ngành, của đơn vị, nâng cao trình độ hiểu biết về kinh tế - kỹ thuật và phối hợp với cấp uỷ địa phương để xây dựng và thực hiện quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng các bí thư đảng uỷ cơ sở về kiến thức quản lý kinh tế, chuyên môn, kỹ thuật... Các ban cần có trách nhiệm giúp Trung ương nắm vững, giúp đỡ, kiểm tra những tổ chức cơ sở đảng ở các đơn vị cơ sở và cơ quan liên hiệp sản xuất, kinh doanh lớn.
ở các địa phương, phương hướng chung là cấp uỷ đảng phải bỏ bao biện, sự vụ, làm cho cơ quan nhà nước chủ động chỉ đạo sản xuất, kinh doanh, tổ chức và quản lý đời sống xã hội. Cấp uỷ phải nắm chắc các vấn đề lớn và mới, các nhiệm vụ trọng tâm để có chủ trương lãnh đạo và kiểm tra sự thực hiện. Phải tăng cường công tác đảng, công tác kiểm tra, công tác bồi dưỡng, bố trí cán bộ, là những khâu then chốt bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng. Không thể để tình trạng cấp uỷ hội họp bàn định mọi việc rồi phân công cấp uỷ viên đi đôn đốc chỉ đạo công việc thay cho cơ quan chính quyền. Còn cơ quan chính quyền thì không quyết định công việc của mình hoặc làm một cách hình thức.
ở các cơ sở thực hiện chế độ thủ trưởng như xí nghiệp, công trường, nông trường, trường học, bệnh viện, phải cải tiến và hết sức coi trọng nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng. Các đảng uỷ cần chăm lo công tác đảng, công tác vận động quần chúng, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong Đảng và ngoài quần chúng. Phải coi trọng lãnh đạo phong trào thi đua, động viên quần chúng phát huy sáng kiến, phát hiện và sử dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật và kinh nghiệm tiên tiến vào sản xuất, tăng cường kỷ luật lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, thực hành tiết kiệm, bảo vệ của công và của tập thể, chống quan liêu, lãng phí, tham ô. Các tổ chức cơ sở đảng phải làm quán triệt và bàn biện pháp thi hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng trong đơn vị theo chức trách lãnh đạo của mình. Phải gắn chặt công tác đảng, công tác quần chúng với công tác kinh tế, công tác chuyên môn nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp ở đơn vị cơ sở, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở, quyết định bố trí, đề bạt cán bộ chủ chốt thuộc diện do đảng uỷ quản lý, đấu tranh khắc phục các mặt tiêu cực, hướng mọi hoạt động của mình vào mục tiêu hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước của đơn vị.
Tổ chức cơ sở đảng có trách nhiệm kiểm tra hoạt động của giám đốc và cơ quan quản lý, bảo đảm cho đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng, pháp luật nhà nước được quán triệt, được thực hiện nghiêm chỉnh và có hiệu quả. Tổ chức cơ sở đảng không quyết định các chỉ tiêu cụ thể của kế hoạch, các biện pháp về sản xuất, chuyên môn, kỹ thuật thuộc trách nhiệm quản lý của người thủ trưởng. Người thủ trưởng và cơ quan quản lý phải báo cáo với đảng uỷ theo đúng chế độ và theo yêu cầu của đảng uỷ.
Qua kiểm tra, phát hiện các ưu điểm, các khuyết điểm, nêu ra các vấn đề giúp cho người thủ trưởng nghiên cứu để bổ khuyết và phải uốn nắn những việc mà người thủ trưởng hoặc cơ quan quản lý làm trái với nghị quyết của Đảng, pháp luật nhà nước.
Kế hoạch kinh tế - xã hội (hoặc chuyên môn, nghiệp vụ) của đơn vị do người thủ trưởng chịu trách nhiệm xây dựng. Tổ chức cơ sở đảng phải lãnh đạo quần chúng tham gia xây dựng kế hoạch trước khi cấp trên có thẩm quyền quyết định. Để làm việc đó, tổ chức cơ sở đảng phải nắm vững tình hình cụ thể, chỉ ra những khả năng tiềm tàng, phát hiện những sáng kiến, kể cả về kinh tế - kỹ thuật của quần chúng, chỉ rõ những yếu tố mới về tinh thần, về chính sách, về tổ chức, v.v. cần được phát huy để thể hiện được tính tích cực và tính khoa học trong việc xây dựng kế hoạch, bảo đảm cho đường lối, chính sách của Đảng được quán triệt trong kế hoạch. Người thủ trưởng phải báo cáo với đảng uỷ về dự án kế hoạch, tiếp thu ý kiến của đảng uỷ để bổ khuyết, báo cáo lên cấp có thẩm quyền xét duyệt kế hoạch về những ý kiến còn chưa nhất trí.
Cần cải tiến sự lãnh đạo các tổ chức cơ sở đảng ở các đơn vị thực hiện chế độ thủ trưởng theo hướng trên đây để tránh tình trạng người phụ trách dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể tổ chức đảng, vừa phát huy chế độ thủ trưởng, vừa nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức đảng, tăng cường công tác đảng, công tác quần chúng, hoàn toàn không phải là hạ thấp vai trò của tổ chức đảng.
Theo tinh thần đó, Ban Chấp hành Trung ương đề nghị Đại hội làm rõ hơn nữa trong Điều lệ Đảng một số vấn đề về trách nhiệm lãnh đạo và kiểm tra của tổ chức đảng ở cơ quan và ở các đơn vị thực hiện chế độ thủ trưởng. Trên cơ sở quy định chung của Điều lệ Đảng, Trung ương cần có quy định chức trách, chế độ cụ thể để bảo đảm thực hiện tốt quy định mới và ngăn chặn những lệch lạc.
c) Các đoàn thể quần chúng, với chức năng tổ chức, giáo dục vận động quần chúng thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự phối hợp và giúp đỡ của Nhà nước, cũng chính là người đại diện cho quyền làm chủ tập thể của quần chúng, là người tập hợp, đề đạt ý kiến, nguyện vọng của quần chúng ở giới mình, giai cấp và lứa tuổi mình với Đảng và Nhà nước. Các đoàn thể quần chúng phải tham gia xây dựng Đảng, xây dựng bộ máy nhà nước, góp phần kiểm tra đảng viên, cán bộ, nhân viên nhà nước thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, làm nghĩa vụ của mình đối với nhân dân lao động.
Cần khắc phục thiên hướng xem nhẹ vai trò của các đoàn thể quần chúng và công tác vận động quần chúng trong điều kiện Đảng nắm chính quyền, phải coi đó là một biểu hiện của tệ quan liêu xa rời quần chúng. Các cấp uỷ cần khắc phục tình hình xem nhẹ kiểm tra và giúp đỡ công tác của các đoàn thể, chỉ giao việc cụ thể khi cần. Tình trạng ấy làm cho nhiều tổ chức của các đoàn thể hoạt động rời rạc, hình thức, và ý kiến, nguyện vọng của quần chúng ít được tập hợp để phản ánh cho Đảng một cách có hệ thống, hạn chế khả năng tập hợp quần chúng và nâng cao tính tích cực của quần chúng trong việc thi hành nghị quyết của Đảng và của Nhà nước cũng như trong việc đấu tranh khắc phục các mặt tiêu cực ngoài xã hội bằng hoạt động của các đoàn thể.
Các cấp uỷ từ trung ương đến cơ sở cần định chế độ làm việc với các đảng đoàn trong các đoàn thể; từng đoàn thể phải đề đạt ý kiến, nguyện vọng của quần chúng với Đảng và Nhà nước; phân tích có hệ thống thái độ của quần chúng đối với các chính sách của Đảng để báo cáo với Trung ương và cấp uỷ. Cần định ra các chế độ bắt buộc các cơ quan đảng và nhà nước phải trả lời trước quần chúng về những ý kiến do quần chúng đề đạt qua các ban chấp hành của các đoàn thể. Phải định các chế độ cho các đồng chí phụ trách Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ được tham dự và phát biểu ý kiến ở các kỳ họp của Ban Bí thư Trung ương Đảng, của Ban Thường vụ các cấp mà nội dung có liên quan đến việc phát động phong trào quần chúng, đến công tác của các đoàn thể.
Vai trò của các đoàn thể, nhất là của Công đoàn, Đoàn Thanh niên trong chức năng tham gia quản lý kinh tế và kiểm tra công việc của Nhà nước, cần được hướng dẫn, định thành chế độ và được thể chế hóa thành pháp luật.
Cần nhấn mạnh trách nhiệm của các tổ chức đảng và của công đoàn trong việc xây dựng giai cấp công nhân, đào tạo cán bộ công nhân cho Đảng, trách nhiệm của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong việc làm tròn vai trò đội xung kích trong mọi nhiệm vụ cách mạng và là đội hậu bị của Đảng. Ra sức kiện toàn tổ chức của các đoàn thể, đặc biệt coi trọng việc nâng cao chất lượng sinh hoạt, củng cố và xây dựng các tổ chức cơ sở của các đoàn thể, bảo đảm cho các đoàn thể, đặc biệt là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Nông hội ở miền Nam và Mặt trận Tổ quốc làm tròn trách nhiệm đã được xác định rõ trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương.
Chúng ta hoan nghênh những cống hiến to lớn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và của các đoàn thể trong sự nghiệp chống Mỹ trước đây, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Song từng đoàn thể phải vươn lên làm tốt hơn nữa trách nhiệm của chính mình để bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động mà mình là đại diện.
Đảng và Nhà nước phải có biện pháp tích cực khắc phục tình trạng vi phạm nghiêm trọng quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động ở nhiều khâu trong đời sống chính trị, tinh thần, văn hóa, kinh tế và xã hội.
Phải quan tâm bồi dưỡng cho quần chúng hiểu biết một cách có hệ thống đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, quyền lợi và nghĩa vụ công dân, tình hình chung của đất nước, những khó khăn và thuận lợi của Đảng, của Nhà nước trong sự nghiệp cách mạng, kiến thức quản lý kinh tế, quản lý nhà nước và quản lý xã hội.
Phải tổng kết để nâng cao chất lượng và quy định thành chế độ việc quần chúng tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền ở cơ sở và ở các cấp thông qua hoạt động của các đoàn thể, các Hội đồng nhân dân, các tổ chức kinh tế.
Phong trào quần chúng thực hiện ba cuộc cách mạng là thể hiện ý thức và năng lực làm chủ tập thể, là kết quả tổng hợp của sự lãnh đạo của Đảng, công tác quản lý của Nhà nước và công tác của đoàn thể.
Phải phát động thật tốt các phong trào quần chúng ở cơ sở dựa trên việc thực hiện chế độ hoạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, kết hợp chặt chẽ giữa các biện pháp kinh tế, giáo dục, hành chính, thực hiện một cách đúng đắn sự thống nhất giữa ba lợi ích, qua đó mà nâng cao từng bước vai trò làm chủ của quần chúng.
2. Kiện toàn Ban Chấp hành Trung ương và các cấp uỷ đảng
Đảng ta được rèn luyện trong chiến đấu lâu dài. Trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng và các cấp uỷ, nhất là từ cấp tỉnh trở lên, số đông cấp uỷ viên là những đồng chí đã được rèn luyện, thử thách, vững vàng về chính trị, có kinh nghiệm thực tiễn, rất mực trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Đó là mặt tốt cơ bản.
Tuy nhiên cũng có những nhược điểm: nhiều đồng chí tuổi cao, sức yếu, sự hiểu biết về kinh tế, kỹ thuật bị hạn chế.
Cấu tạo và sự phân công trong Ban Chấp hành chưa thể hiện được một cách đầy đủ yêu cầu tăng cường năng lực tổ chức thực hiện theo hệ thống tổ chức của Đảng. Số uỷ viên Bộ Chính trị và uỷ viên Ban Thường vụ của một số cấp uỷ công tác ở cơ quan nhà nước quá nhiều; Ban Bí thư Trung ương Đảng và Ban Thường vụ các cấp uỷ thiếu các đồng chí phụ trách công tác của Đảng ở các lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực trọng yếu nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Việc phân công quá nhiều uỷ viên Bộ Chính trị làm công tác trong Hội đồng Bộ trưởng làm cho Bộ Chính trị không có đủ thì giờ nghiên cứu giải quyết kịp thời các vấn đề về chiến lược, các chính sách lớn hoặc tổng kết các vấn đề về đường lối và lý luận của Đảng.
Cấu tạo của Ban Chấp hành Trung ương và của các tỉnh uỷ, thành uỷ chưa thể hiện được tính kế thừa trong việc xây dựng cơ quan lãnh đạo của Đảng: gần 100% uỷ viên Trung ương vào Đảng từ trước và trong kháng chiến chống Pháp, trên 90% tỉnh uỷ viên, thành uỷ viên cũng vào Đảng từ trước chống Mỹ, cứu nước và trên 62% từ trước năm 1954.
Những khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế của Đảng rõ ràng có phần do nguyên nhân về cấu tạo của cấp uỷ.
Cần có một sự đổi mới trong cấu tạo và cách phân công của Ban Chấp hành Trung ương và các cấp uỷ nhằm khắc phục những nhược điểm trên đây.
Ban Chấp hành Trung ương đề nghị Đại hội chú trọng yêu cầu nâng cao chất lượng lãnh đạo của Trung ương về kinh tế - xã hội, hạ thấp tuổi đời bình quân của Ban Chấp hành Trung ương. Trong Ban Chấp hành Trung ương nên có các đồng chí tham gia hoạt động từ trước Cách mạng Tháng Tám, có các đồng chí tham gia kháng chiến chống Pháp và trong chống Mỹ, đã trải qua công tác thực tế, nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, có kiến thức và năng lực quản lý kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật, có đủ tiêu chuẩn về chính trị đã đề ra. Về thành phần nên thêm cán bộ xuất thân từ công nhân, cán bộ nữ và cán bộ dân tộc.
Để nâng cao chất lượng lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương, phát huy hiệu lực chỉ đạo của Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng cần giảm bớt số uỷ viên Bộ Chính trị làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, chọn những đồng chí tương đối trẻ, có sức khoẻ, có khả năng chỉ đạo thực hiện để kiện toàn Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng.
Các cấp uỷ tỉnh, thành phố, quận, huyện, thị trong những năm qua đã có nhiều cố gắng và tiến bộ, có những cấp uỷ và cấp uỷ viên nhất là ở miền Nam trưởng thành nhanh trong công tác lãnh đạo kinh tế và văn hoá.
Nhằm khắc phục những mặt yếu chung hiện nay của các cấp uỷ, sau Đại hội toàn quốc, đại hội các cấp cần mạnh dạn đưa thêm vào cấp uỷ các đồng chí trẻ, cán bộ nữ, các đồng chí có trình độ quản lý kinh tế - kỹ thuật, có năng lực tổ chức thực hiện, nhạy cảm với cái mới, tiếp thu và chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng và qua thực tiễn đã tỏ ra tuyệt đối trung thành với Đảng, với sự nghiệp cách mạng. Cần có nhiều cấp uỷ viên công tác ở cấp dưới và cơ sở nhưng phải bảo đảm tiêu chuẩn, không nên cấu tạo một cách nhất loạt hễ là bí thư cấp dưới đều là cấp uỷ viên cấp trên. Mỗi cấp đều phải có quy hoạch và biện pháp tích cực bồi dưỡng, đào tạo công nhân để đưa vào cấp uỷ.
Cần kiên quyết đổi mới nhận thức về việc đưa người vào Ban Chấp hành các cấp; không thể coi cấp uỷ là nơi để thăng quan tiến chức, nơi để có chính sách đãi ngộ thoả đáng, nơi để cấu tạo một cách hình thức có tính chất "liên hiệp". Ra hoặc vào cấp uỷ là do yêu cầu của nhiệm vụ. Đó là việc bình thường. Có những đồng chí có nhiều công lao thành tích, đã phát huy tốt tác dụng trong lãnh đạo tập thể của cấp uỷ, nay vì điều kiện sức khoẻ hoặc khả năng, không ra ứng cử cấp uỷ nữa để có thêm những đồng chí mới có đủ điều kiện phát huy tác dụng hơn mình thay thế. Chúng ta hết sức coi trọng những cống hiến của các đồng chí đối với sự nghiệp chung và có chính sách đúng đắn đối với các đồng chí đó.
Cần tăng cường khả năng tổ chức thực hiện công tác đảng, công tác quần chúng của các tỉnh uỷ, thành uỷ, huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ,v.v. bằng cách đổi mới sự phân công trong Ban Chấp hành và Ban Thường vụ, tăng thêm uỷ viên thường vụ chuyên trách công tác đảng, bớt một số đồng chí công tác bên Uỷ ban nhân dân, nơi có nhiều, xác định rõ trách nhiệm của bí thư và phó bí thư đối với công việc hằng ngày. Bí thư và các phó bí thư phải chuyên trách công tác đảng.
Cấu tạo cấp uỷ phải bảo đảm sự lãnh đạo của cấp uỷ đối với các lĩnh vực công tác, thể hiện được yêu cầu và trách nhiệm lãnh đạo của cấp uỷ đối với xây dựng cơ cấu kinh tế trên lãnh thổ, đối với yêu cầu tăng cường lãnh đạo văn hoá, quốc phòng, an ninh, công tác đảng và công tác quần chúng ở địa phương (kể cả ở các đơn vị do cấp trên quản lý).
Theo tinh thần đó, cần đổi mới cấu tạo của nhiều cấp uỷ, hạ thấp tuổi đời bình quân của các cấp uỷ.
Coi trọng kiện toàn các huyện uỷ đáp ứng những yêu cầu cấp thiết của việc lãnh đạo xây dựng huyện có cơ cấu nông - công nghiệp và thành những pháo đài chiến đấu theo vị trí tính chất cụ thể của từng loại huyện. Các quận uỷ cần được kiện toàn để đủ sức lãnh đạo những nhiệm vụ được giao trên địa bàn quận, đặc biệt rất chú trọng tăng cường tổ chức và năng lực của quận uỷ để lãnh đạo công tác đảng, công tác quần chúng ở các đơn vị cơ sở trên địa bàn quận mà tổ chức đảng được giao trực thuộc quận uỷ.
Coi trọng kiện toàn các thành uỷ, thị uỷ. Trước hết kiện toàn các Thành uỷ Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Hải Phòng đúng với vị trí của Thủ đô và các thành phố nói trên. Kiện toàn các thành uỷ ở các khu vực công nghiệp quan trọng như: Đà Nẵng, Biên Hoà, Thái Nguyên, Việt Trì, Hòn Gai, Vinh, v.v.. Tăng thêm các đồng chí có năng lực, có kiến thức lãnh đạo và quản lý công nghiệp, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, các công tác sự nghiệp, dịch vụ và bảo đảm an toàn xã hội để các thành uỷ đó có đủ sức lãnh đạo các mặt công tác ở thành phố và khu công nghiệp.
ở các thành phố trực thuộc trung ương và thành phố, thị xã thuộc tỉnh có khu công nghiệp, cần đưa thêm vào cấp uỷ những cán bộ có năng lực công tác ở các cơ quan và nhất là ở các đơn vị cơ sở trực thuộc trung ương đóng ở địa phương để nâng cao chất lượng lãnh đạo của cấp uỷ đối với công tác đảng và đối với việc quản lý nhà nước ở địa phương trên lãnh thổ.
Trong các tỉnh uỷ, thành uỷ, cần có nhiều cán bộ công tác ở cơ sở sản xuất kinh doanh và các liên hiệp sản xuất.
Các uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương và các cấp uỷ phải tiêu biểu cho trí tuệ của toàn Đảng hay của mỗi đảng bộ và phải thật sự có khả năng đóng góp vào sự lãnh đạo tập thể của Ban Chấp hành.
Cần có quy chế làm việc để uỷ viên Ban chấp hành các cấp phát huy được trách nhiệm và khả năng của mình trong lãnh đạo tập thể. Ngoài các phiên họp của Ban Chấp hành cần nghiên cứu các hình thức tổ chức sinh hoạt và công tác như uỷ ban, tiểu ban để các uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương và các cấp uỷ tỉnh, thành phố tham gia chuẩn bị các hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính trị hoặc của cấp uỷ và Ban Thường vụ cấp uỷ về những lĩnh vực công tác quan trọng.
Chất lượng lãnh đạo của các cấp uỷ đảng không chỉ tuỳ thuộc ở bản thân cấp uỷ, mà một phần hết sức trọng yếu còn tuỳ thuộc ở chất lượng chuẩn bị của các cơ quan tham mưu của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, kiện toàn các cơ quan tham mưu là một khâu rất then chốt để bảo đảm chất lượng lãnh đạo tập thể của Trung ương và của các cấp uỷ.
Cần kiện toàn và sử dụng tốt các ban của Trung ương và của các cấp uỷ. Bố trí đúng trưởng ban, các phó trưởng ban và đưa về các ban những cán bộ thực sự có phẩm chất và năng lực. Bộ máy của các ban phải tinh và gọn. Các đồng chí trưởng ban, các đồng chí Bí thư Trung ương Đảng phụ trách từng ban phải đích thân chỉ đạo việc tinh giản bộ máy của ban do mình phụ trách. Không nhất thiết có ban là có vụ, một số ban chỉ cần có trưởng ban, các phó trưởng ban và một số tổ chuyên viên; không nhất thiết cấp trên có ban gì cấp dưới có ban ấy. Phải kiện toàn và sử dụng tốt cơ quan tham mưu của Nhà nước. Quy định chế độ cho các ban được sử dụng cộng tác viên để cải tiến chất lượng công tác của các ban và giảm nhẹ biên chế.
Từ trước đến nay, Đảng ta luôn luôn đặc biệt quan tâm đến việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam.Thực tế lịch sử gần 40 năm qua đã chứng minh sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi và sự trưởng thành của lực lượng vũ trang nhân dân.
Tình hình đất nước và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới đòi hỏi phải tiếp tục xây dựng quân đội nhân dân cách mạng hùng mạnh, có trình độ chính quy và hiện đại ngày càng cao. Để đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng và yêu cầu của chiến tranh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc, phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang, đồng thời phải thực hiện đầy đủ chế độ một người chỉ huy bảo đảm cho người chỉ huy phát huy được đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho, hạ quyết tâm và xử trí các tình huống một cách chủ động, quyết đoán chính xác, kịp thời và bộ đội hành động kiên quyết, khẩn trương để giành thắng lợi, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.
Đảng lãnh đạo trực tiếp, tập trung, thống nhất các lực lượng vũ trang cả về chính trị, tư tưởng và về tổ chức, không ngừng nâng cao bản chất giai cấp công nhân của quân đội, làm cho quân đội trung thành vô hạn với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, đoàn kết chặt chẽ xung quanh Ban Chấp hành Trung ương, gắn bó chặt chẽ với nhân dân lao động, tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, hăng hái lao động xây dựng đất nước và làm tròn nghĩa vụ quốc tế.
Ban Chấp hành Trung ương đề nghị Đại hội sửa đổi Điều 12 của Điều lệ Đảng và giao cho Ban Chấp hành Trung ương quy định cụ thể tổ chức sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam.
Cần thành lập một ban của Trung ương đặt trực thuộc Bộ Chính trị để giúp Trung ương quản lý cán bộ trong lực lượng vũ trang và an ninh, tiến hành các công tác cần thiết khác theo yêu cầu của Trung ương.
3. Kiện toàn bộ máy nhà nước
Vấn đề lớn hiện nay là phải xây dựng Nhà nước theo yêu cầu của việc xây dựng cơ cấu kinh tế mới và bảo đảm phương thức quản lý mới. Ba vấn đề cơ bản của việc kiện toàn bộ máy nhà nước là xây dựng cơ chế quản lý mới, sửa đổi phương pháp làm việc của Đảng và Nhà nước, bố trí đúng cán bộ.
Những quyết định gần đây của Đảng và Nhà nước dựa trên các Nghị quyết số 10 của Ban Chấp hành Trung ương và số 32 của Bộ Chính trị, đánh dấu những tiến bộ bước đầu của việc kiện toàn Nhà nước theo yêu cầu nói trên. Cần tiếp tục cụ thể hoá để thực hiện tốt các nghị quyết đó.
Vấn đề xây dựng cơ chế quản lý là một vấn đề hết sức trọng yếu để tăng cường tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước. Trong một vài năm tới, phải tập trung sức tăng cường lực lượng, huy động các tổ chức đi vào thực tế để nghiên cứu một cách tương đối đồng bộ vấn đề này, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, để thúc đẩy hoàn thiện việc kiện toàn bộ máy nhà nước và hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị cơ sở.
Phải kiện toàn bằng được các cơ quan quản lý tổng hợp, đặc biệt là Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, hệ thống thông tin kinh tế, kiện toàn các viện nghiên cứu khoa học, các khâu then chốt về nghiên cứu quy hoạch, kế hoạch, dự luật, chính sách, chế độ quản lý trong các bộ quản lý các ngành kinh tế - kỹ thuật. Đó là những khâu rất quan trọng quyết định hiệu lực quản lý của Nhà nước, tạo ra những điều kiện cần thiết để đưa hệ thống các đơn vị sản xuất, kinh doanh đi vào hạch toán kinh tế và có phương hướng đúng đắn để phát huy tính chủ động của cơ sở, kiện toàn các đơn vị cơ sở.
Trong khi coi trọng kiện toàn các cơ quan và đơn vị kinh tế phải thấy hết những yêu cầu mới về tăng cường quốc phòng, an ninh. Chúng ta phải xây dựng quân đội ngày càng vững mạnh. Để không ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của quân đội, đi đôi với tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực của công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội, phải thực hiện đầy đủ chế độ một người chỉ huy và quản lý chặt chẽ quân đội về mọi mặt.
Chúng ta còn nhiều nhược điểm trong quản lý xã hội. Phải kiện toàn về chất lượng các cơ quan công an, lực lượng công an nhân dân và bảo đảm chặt chẽ tiêu chuẩn của người được chọn vào các cơ quan, đơn vị này. Các cấp uỷ và đồng chí bí thư cần nắm chắc cơ quan công an và lực lượng công an nhân dân, chỉ đạo trực tiếp việc kiện toàn, củng cố các cơ quan, đơn vị ấy. Coi trọng lãnh đạo và kiện toàn về chất lượng các cơ quan bảo đảm pháp chế nhà nước như Viện kiểm sát, toà án, tư pháp, trọng tài kinh tế, v.v..
Các cơ quan quản lý khoa học thông tin, văn hoá xã hội, giáo dục, văn học, nghệ thuật
giữ vị trí rất trọng yếu trong việc đẩy mạnh ba cuộc cách mạng và đấu tranh chống địch. Xem nhẹ lãnh đạo văn hoá, xã hội, không kiện toàn tốt các cơ quan trên đây là tự tước bỏ những công cụ rất trọng yếu để xây dựng con người mới, thế hệ mới, cuộc sống mới, là để lãng phí một tiềm năng to lớn trong cuộc đấu tranh để ngăn ngừa và khắc phục các mặt tiêu cực trong xã hội.
Trong hệ thống bộ máy nhà nước, Đảng ta coi trọng làm cho cơ quan quyền lực nhà nước do dân cử, thực sự làm tròn trách nhiệm và giữ vững quyền hạn của mình dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tinh thần ấy cần được quán triệt tốt hơn nữa trong các cấp uỷ đảng.
Sức mạnh điều hành của Nhà nước phải được thể hiện trong hệ thống pháp luật. Hệ thống này phải vừa có sức thuyết phục, vừa có sức mạnh bắt buộc đối với toàn xã hội. Pháp luật, xét cho cùng là thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng. Nhưng không được lẫn lộn giữa đường lối, chính sách và pháp luật.
Phải hết sức quan tâm đến pháp luật, kế hoạch hoá việc xây dựng pháp luật và phòng ngừa phạm pháp. Vấn đề cấp bách hiện nay là phải coi trọng các luật kinh tế, luật hình sự, luật lao động, luật dân sự.
Phải từng bước xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và phải làm cho mọi cán bộ đảng viên trước hết là mọi cán bộ chủ chốt chấp hành đúng pháp luật.
Trong kiện toàn bộ máy nhà nước, một vấn đề bức thiết là phải tinh giản bộ máy, giảm nhẹ biên chế nhất là biên chế hành chính một cách kiên quyết trên cơ sở xoá bỏ cơ chế hành chính quan liêu, bao cấp, đổi mới các chính sách lao động, có chính sách khuyến khích người phụ trách dùng ít người mà công việc vẫn bảo đảm; định rõ chức danh và xác định tiêu chuẩn nghiệp vụ của các chức danh; thực hiện đổi mới kế hoạch và biện pháp về tuyển sinh vào các trường đại học và trung học chuyên nghiệp theo hướng lấy từ cơ sở; sớm ban hành các chính sách chế độ cụ thể để giải quyết các trường hợp cần đưa ra khỏi biên chế, v.v.. Cần chấm dứt tình trạng đồng chí phụ trách nào cũng kêu biên chế nặng nề, nhưng đối với cơ quan mình phụ trách thì cứ lập thêm tổ chức, lấy thêm hoặc không giảm biên chế.
Phải quản lý chặt chẽ việc đặt ra tổ chức mới và tuyển người vào biên chế. Nghiên cứu để giảm bớt các tổ chức không cần thiết hoặc nhập lại các tổ chức đã bị chia tách ra quá sớm. Việc lập tổ chức mới tuyệt đối phải theo các quy định về xét duyệt tổ chức; việc tuyển người vào biên chế phải theo đúng tiêu chuẩn nghiệp vụ.
4. Ra sức kiện toàn tổ chức cơ sở đảng gắn với đẩy mạnh xây dựng huyện, quận, kiện toàn cơ sở, xây dựng, củng cố các liên hiệp sản xuất và phát động các phong trào quần chúng
Chúng ta biểu dương những cố gắng rất lớn của các tổ chức cơ sở đảng trên mọi lĩnh vực. Chính từ cơ sở mà nhiều kinh nghiệm phong phú thể hiện đường lối cần được tổng kết. Tuy nhiên, sự cố gắng đó so với nhiệm vụ nặng nề của cách mạng còn chưa đủ. Mặt yếu kém của cơ sở đảng còn nhiều. Việc nâng cao sức chiến đấu, tính chủ động, sáng tạo, sự vững vàng của tổ chức cơ sở đảng, nhất là của các chi bộ, cho tương xứng với vị trí và tầm quan trọng của các tổ chức cơ sở đảng bao giờ cũng là trách nhiệm hàng đầu của toàn Đảng.
Tình trạng có những tổ chức cơ sở đảng yếu kém kéo dài đòi hỏi phải giải quyết một cách tổng hợp và tận gốc những nguyên nhân cơ bản sinh ra tình trạng trì trệ ấy.
Các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và của Bộ Chính trị về công tác tổ chức đã rút ra những nguyên nhân từ sự chỉ đạo của cấp trên, nhất là khuyết điểm trong cơ chế quản lý kinh tế, và từ các khuyết điểm của bản thân tổ chức cơ sở đảng, đã đề ra một cách đúng đắn những biện pháp đồng bộ để đưa tổ chức cơ sở đảng tiến lên đồng đều. Cần thi hành nghiêm túc các nghị quyết ấy.
Trong tình hình mới, tất cả các loại cơ sở cần xác định rõ hơn nữa trách nhiệm của mình đối với cả hai nhiệm vụ chiến lược, tăng cường lãnh đạo quân sự, công an, xây dựng lực lượng dự bị, thực hiện các chính sách hậu phương, đề cao cảnh giác cách mạng, phân công các đồng chí cán bộ chủ chốt vững vàng, đã qua thử thách, nắm chắc lực lượng dân quân tự vệ, quân dự bị, công an nhân dân, bảo đảm sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng.
a) Phải qua phong trào xây dựng huyện, củng cố cơ sở mà kiện toàn tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn, gắn xây dựng huyện với kiện toàn cơ sở. Chủ trương của Đảng ta về xây dựng các huyện theo hướng kết hợp nông - công nghiệp (hoặc lâm - nông - công nghiệp hoặc ngư - nông - công nghiệp) và thành những pháo đài bảo vệ Tổ quốc là một chủ trương đúng đắn có tính chiến lược mà 5 năm qua chúng ta làm chưa tốt. Cần khẩn trương đẩy mạnh việc xây dựng huyện trong 5 năm (1981 - 1985) và những năm 80.
Theo phương hướng đã vạch rõ, mỗi huyện phải phấn đấu để trong 5 năm tới, từ đất đai, tài nguyên, lao động và cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có của chính huyện mình mà vươn lên để trở thành những huyện tiên tiến, những huyện tiên tiến hiện nay phải vươn lên đạt những mục tiêu cao hơn trong kinh tế, đời sống.
Để xây dựng huyện, các cơ quan trung ương và tỉnh, thành phố phải phân loại các huyện theo vùng kinh tế, hướng dẫn phương hướng sản xuất phù hợp với từng vùng nhằm tạo ra những vùng có sản phẩm hàng hoá lớn (lương thực, nguyên liệu cho công nghiệp, sản phẩm xuất khẩu) theo hướng từng bước đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Phải giúp cho từng huyện kiểm kê nắm vững đất đai, lao động, công cụ, cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có của huyện mình để vạch ra phương hướng và quy hoạch phát triển công nghiệp (ngư, lâm nghiệp, v.v.), tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, phát triển ngành, nghề, xây dựng các mục tiêu và đề ra các biện pháp thực hiện về đời sống, văn hoá, xã hội. Trên cơ sở đó, phát động quần chúng và các cơ sở trên địa bàn huyện ra sức xây dựng huyện chủ yếu bằng sức mình, không trông chờ ỷ lại vào cấp trên.
Dựa vào phương hướng, quy hoạch đó, phải có quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng bố trí cán bộ, nhất là đối với cán bộ chủ chốt, kiện toàn tổ chức của huyện uỷ, uỷ ban nhân dân, các đoàn thể, gắn chặt với kiện toàn các cơ sở sản xuất, kinh doanh, trạm trại trong huyện.
Các cơ quan trung ương, tỉnh, thành phố phải trên cơ sở quy hoạch của huyện, phân cấp quản lý và tích cực khẩn trương tạo điều kiện cho huyện quản lý kinh tế, văn hoá và các mặt công tác khác một cách chủ động. Phải giúp cho huyện có quy hoạch, kế hoạch để sớm bố trí được một đội ngũ cán bộ tương đối đồng bộ có chất lượng, có nghiệp vụ từ bí thư, chủ tịch đến cán bộ từng ngành và cán bộ cơ sở theo yêu cầu của nhiệm vụ kinh tế, quốc phòng ở từng huyện. Phải coi trọng đào tạo cán bộ tại chỗ, đồng thời tăng cường cán bộ có năng lực, có trình độ của trung ương và của tỉnh, thành phố cho huyện, tập trung sức giúp đỡ, kiện toàn các huyện có tiềm năng lớn về kinh tế hoặc có vị trí quốc phòng trọng yếu.
Trung ương và cấp tỉnh, thành phố phải có tổ chức để chỉ đạo phối hợp giữa các ban, ngành trong việc chỉ đạo xây dựng huyện và phải cải tiến sự chỉ đạo của cấp huyện mình đối với huyện và cơ sở đảng.
Gắn với xây dựng huyện và củng cố cơ sở sản xuất, cần coi trọng xây dựng và kiện toàn các chi bộ, các đảng uỷ xã, hợp tác xã (nông nghiệp, tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp) thật trong sạch, vững mạnh, loại trừ bằng được hiện tượng cán bộ, đảng viên tham ô và ức hiếp quần chúng, không làm đúng chức trách, không thực hiện các nghị quyết của Đảng; có biện pháp làm chuyển biến cơ sở yếu kém.
Các đảng uỷ, chi bộ ở xã, hợp tác xã phải nắm vững quan điểm của Đảng, lãnh đạo tốt ba cuộc cách mạng, thúc đẩy phong trào cải tiến quản lý, thực hiện chế độ khoán mới ở hợp tác xã, xây dựng các tập đoàn sản xuất và hợp tác xã ở miền Nam để đưa nông nghiệp đi lên theo đúng đường lối của Đảng. Phải qua đó và các phong trào khác mà kiểm tra, nâng cao chất lượng đảng viên, bố trí, bồi dưỡng tốt đội ngũ cán bộ ở cơ sở, củng cố và tăng cường tổ chức, phát huy mặt tích cực, đấu tranh khắc phục các mặt tiêu cực, ngăn chặn hủ tục, mê tín dị đoan, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng. Cần nghiên cứu có tổ chức sinh hoạt chung cho các đảng viên theo đơn vị thôn ở những nơi một thôn có nhiều chi bộ để bàn các vấn đề cần thiết trong phạm vi thôn.
Trong việc kiện toàn cơ sở đảng đối với nhiều vùng ở miền Nam và ở nhiều xã thuộc các tỉnh miền núi, vùng cao biên giới, cần có biện pháp đặc biệt. ở những nơi này, tỉnh uỷ và huyện uỷ cử các đoàn cán bộ xuống tìm hiểu tình hình, giúp đỡ cơ sở xác định nhiệm vụ, mục tiêu, biện pháp phấn đấu và giúp đỡ các chi bộ, đảng bộ xây dựng cho được đội ngũ cán bộ cốt cán thông qua công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, xây dựng các đoàn thể quần chúng nhất là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, đẩy mạnh các mặt công tác, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu. ở các xã miền Nam, miền núi, nếu thôn, ấp nào chưa có chi bộ, tổ đảng, nhất thiết phải xây dựng các tổ trung kiên và giao cho các tổ chức này làm trách nhiệm như một tổ đảng.
Coi trọng kiện toàn cấp quận, thị xã để tăng cường lãnh đạo và quản lý tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp và các mặt công tác dịch vụ, văn hoá, xã hội, trật tự an ninh trong quận, thị xã. Các quận uỷ, thị uỷ phải coi trọng kiện toàn các tổ chức cơ sở đảng ở các lĩnh vực nói trên. ở các quận cần coi trọng củng cố, kiện toàn các phường. Hội đồng Bộ trưởng cần nghiên cứu để xác định rõ hơn nội dung hoạt động của cấp phường về các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội...
b) Trong các xí nghiệp quốc doanh, để bảo đảm thực hiện cơ chế quản lý mới, phải sớm định rõ tiêu chuẩn nghiệp vụ của giám đốc, các phó giám đốc, các cán bộ chủ chốt khác, và điều chỉnh lực lượng cán bộ từ dưới lên và từ trên xuống nhằm khắc phục tình trạng bố trí nhiều giám đốc, phó giám đốc không tương xứng với nhiệm vụ hiện nay. Các bộ phải xây dựng và tổ chức thực hiện ngay kế hoạch mở lớp bồi dưỡng các giám đốc, phó giám đốc xí nghiệp về trình độ quản lý, kết hợp với điều chỉnh cán bộ về nơi cơ sở yếu để sớm khắc phục tình trạng nghiêm trọng hiện nay là mới có chưa đầy 30% giám đốc xí nghiệp được bồi dưỡng về quản lý kinh tế, và gần 50% giám đốc xí nghiệp trung ương chưa qua các trường kinh tế - kỹ thuật trung cấp hoặc đại học. Viện quản lý kinh tế và các ban phải hướng dẫn, đôn đốc cụ thể việc này.
Các giám đốc xí nghiệp phải là những đồng chí nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, được bồi dưỡng về quản lý kinh tế, biết kinh doanh, có hiểu biết chuyên môn, kỹ thuật ở mức độ cần thiết, dám chịu trách nhiệm và phải là những đồng chí có tính đảng cao, có quan điểm quần chúng, biết dựa vào quần chúng, tôn trọng vai trò của tổ chức đảng, không được vì thực hiện chế độ thủ trưởng mà chủ quan, độc đoán, chuyên quyền, vô kỷ luật.
Có tình hình ở nhiều địa phương, trình độ của bí thư đảng uỷ xí nghiệp quá thấp so với giám đốc, và ở nhiều xí nghiệp cần có bí thư chuyên trách mà hiện chưa có. Các cấp uỷ đảng phải phối hợp với các bộ trưởng để nhanh chóng sửa chữa tình trạng đó.
Theo phương hướng đổi mới quản lý kinh tế, hiện nay các hình thức liên hiệp sản xuất (xí nghiệp liên hợp, liên hiệp các xí nghiệp, công ty, v.v.) được hình thành. Cần có cơ chế hoạt động đồng bộ bảo đảm cho các đơn vị cơ sở và các tổ chức liên hiệp sản xuất thực hiện có hiệu quả chế độ hạch toán kinh tế.
Về mặt tổ chức của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương sẽ nghiên cứu tổ chức sự chỉ đạo đối với tổ chức cơ sở đảng ở các xí nghiệp trong liên hiệp các xí nghiệp cho phù hợp với tình hình mới.
ở mỗi xí nghiệp liên hợp sẽ thành lập một tổ chức cơ sở đảng; trong trường hợp một bộ phận của xí nghiệp liên hợp ở xa nơi đơn vị đóng (khác tỉnh, khác huyện), thì tổ chức đảng ở bộ phận ấy có thể được đặt trực thuộc cấp uỷ địa phương (huyện, thị) ở nơi bộ phận ấy hoạt động. Đảng uỷ xí nghiệp liên hợp được đặt quan hệ với tổ chức đảng ở bộ phận đó và với cấp uỷ địa phương để phối hợp hoạt động, trao đổi kinh nghiệm.
Các tổ chức cơ sở đảng ở các cơ sở văn hoá, giáo dục, khoa học kỹ thuật, đặc biệt là ở các trường đại học, trung học chuyên nghiệp, các viện nghiên cứu đều phải tiến hành kiện toàn tổ chức, cải tiến cách lãnh đạo và kiểm tra của mình gắn với cải tiến công tác quản lý về chuyên môn, nghiệp vụ của đơn vị theo hướng nâng cao trách nhiệm và tính chủ động của cơ sở.
Tổ chức cơ sở đảng nói trên nhất là ở trường học phải quan tâm đặc biệt đến việc xây dựng thế hệ trẻ một cách toàn diện cả về kiến thức văn hoá, chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ, cả về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, chuẩn bị và bồi dưỡng cho thanh niên trở thành những cán bộ có chất lượng ngay từ khi bước vào cuộc sống thực tế trong xây dựng và chiến đấu.
Trách nhiệm đó không chỉ hạn chế trong công tác giảng dạy và trong việc nâng cao chất lượng sinh hoạt của Đoàn, mà phải thể hiện cả ở việc giáo dục bằng hành động thực tế, ở vai trò gương mẫu của giáo viên, của cán bộ, đảng viên và cả ở cách quản lý trường sở, xây dựng nếp sống có văn hoá ở các trường, các đơn vị.
Bồi dưỡng, đào tạo các giáo viên về trình độ chính trị, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức đảng, của Công đoàn, Đoàn Thanh niên cũng như kiện toàn bộ máy quản lý của các trường là công tác có ý nghĩa quan trọng, rất bức thiết đối với việc giáo dục thế hệ trẻ. Bộ Giáo dục, Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Ban Khoa giáo Trung ương và các cơ quan có trách nhiệm cần có kế hoạch chu đáo nhằm chấn chỉnh, tăng cường công tác này thật cụ thể. Các đảng uỷ, các Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên ở các trường cần chăm lo cải tiến sinh hoạt của Đoàn và các bộ môn ở các trường, chú trọng đến nội dung giáo dục, nhằm phát huy mặt tích cực, khắc phục mặt tiêu cực trong cán bộ, học sinh.
ở các đơn vị công an nhân dân, các tổ chức cơ sở đảng phải thực sự được củng cố trong sạch, vững mạnh; phải tiêu biểu cho ý chí kiên cường, bất khuất, cho tinh thần cảnh giác cách mạng triệt để, cho tính tổ chức kỷ luật cao, luôn luôn xứng đáng là đội tiên phong chiến đấu kiên cường của giai cấp công nhân ở đơn vị cơ sở. Tổ chức sự chỉ đạo của tổ chức đảng trong lực lượng công an nhân dân cần được Trung ương quy định cho phù hợp với đặc điểm của công an nhân dân.
ở các cơ quan trung ương cần định rõ nội dung, yêu cầu để bảo đảm chất lượng kiểm tra của các đảng bộ cơ quan và kiện toàn bằng được các đảng uỷ để làm tròn trách nhiệm theo yêu cầu mới.
Các đảng bộ cơ quan trung ương nói chung vừa chịu sự chỉ đạo của Trung ương trên các vấn đề lớn, nhất là về quán triệt đường lối, chính sách, quan điểm trong công tác chung và của cơ quan, chịu sự chỉ đạo của cấp uỷ địa phương ở nơi cơ quan đóng về công tác đảng vụ, công tác quần chúng, về việc chấp hành các chính sách được thực hiện ở địa phương. Các ban phụ trách từng khối phải giúp Trung ương trong việc giúp đỡ, hướng dẫn, kiểm tra các hoạt động của tổ chức đảng ở cơ quan gắn với công tác quản lý cán bộ. Ban Bí thư Trung ương Đảng cần phân công người và cơ quan có trách nhiệm kịp thời và theo chế độ mà phổ biến, truyền đạt trực tiếp cho các đảng uỷ cơ quan trực thuộc những vấn đề quan trọng về thời sự, chính sách và các nghị quyết, chỉ thị quan trọng của Đảng. Cần tổng kết kinh nghiệm việc đưa đảng viên ở các cơ quan về tham gia sinh hoạt, công tác ở các phường theo quyết định của Ban Bí thư. Cần quy định rõ và thiết thực hơn trách nhiệm của đảng viên đối với công tác xã hội, coi đó là một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng đảng viên. Trung ương sẽ tổng kết để giải quyết những mắc mứu hiện nay trong tổ chức hệ thống chỉ đạo các đảng bộ cơ quan trung ương và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc, và có những hình thức tổ chức linh hoạt để giải quyết những chỗ hiện còn chưa hợp lý.
Việc kiện toàn các đảng uỷ cơ sở và trước hết là việc bố trí đúng bí thư
và các uỷ viên thường vụ có tầm quan trọng quyết định đối với việc nâng cao chất lượng lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng; Ban Bí thư Trung ương Đảng căn cứ vào số lượng đảng viên, số lượng lao động và tầm quan trọng của các đơn vị cơ sở để định chế độ bí thư chuyên trách. ở những nơi đó, đồng chí nào được cử làm bí thư sẽ thôi giữ chức vụ khác của Nhà nước và các đoàn thể. Việc xếp lương của các bí thư chuyên trách, và các chính sách, chế độ đãi ngộ đối với các đồng chí đó phải do cơ quan đảng quyết định. Bí thư đảng bộ ở các bộ, tổng cục (hoặc sở) phải được các ban của Đảng xem xét để báo cáo với Ban Bí thư (hoặc với cấp uỷ) những trường hợp cần thay đổi.
Các đảng uỷ cơ sở được thành lập các ban tổ chức, tuyên huấn; thành viên của các ban này nói chung được chọn trong số đảng viên có tín nhiệm, có năng lực hoạt động kiêm chức. ở các xí nghiệp, đảng uỷ cơ sở cần lập các tiểu ban hoặc tổ kiểm tra để giúp cấp uỷ thực hiện chức năng kiểm tra hoạt động của thủ trưởng và cơ quan quản lý.
5. Nâng cao tính chiến đấu và vai trò tiên phong của đảng viên, xây dựng đội ngũ đảng viên trong sạch, vững mạnh
Đảng ta hiện có 1.727.784 đảng viên bao gồm những chiến sĩ ưu tú đã được kết nạp vào Đảng qua nhiều thế hệ cách mạng trong hơn nửa thế kỷ qua.
Chúng ta đánh giá cao đội ngũ của Đảng với bản chất cách mạng tốt đẹp, sự hy sinh phấn đấu và sự từng trải của đông đảo đảng viên, dù đã tham gia cách mạng ở thời kỳ nào. Trong bước chuyển biến của cách mạng vừa qua, nhiều đảng viên đã giữ vững phẩm chất cách mạng, nhanh chóng nâng cao năng lực công tác, xứng đáng là chiến sĩ tiên phong, được quần chúng tin yêu, mến phục. Sự vững vàng của đông đảo đảng viên trước bước ngoặt lịch sử và trước những khó khăn to lớn vừa qua nói lên lòng trung thành và sự từng trải của đội ngũ của Đảng. Song trong đội ngũ của Đảng hiện nay, ngoài một số đã thoái hoá biến chất nhưng chưa được đưa ra khỏi Đảng, còn một bộ phận đảng viên không thể hiện ở mức tối thiểu vai trò của người cộng sản cả về lý tưởng và về hành động, trong đó có một số không ít người thực sự đã mất ý chí chiến đấu. Bộ phận này xét không xứng đáng với danh hiệu đảng viên và đang hạn chế đáng kể sức chiến đấu của nhiều đảng bộ.
Đảng viên dù ở cương vị công tác nào cũng đều phải là những chiến sĩ cộng sản có lý tưởng và hành động theo đường lối của Đảng.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng qua các phong trào quần chúng và qua công tác phát thẻ Đảng, chúng ta đã nâng một bước chất lượng đảng viên và đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng. Tuy vậy, việc này ở nhiều nơi chưa được tiến hành kiên quyết do những nhận thức không đúng đắn về tiêu chuẩn đảng viên, do cảm tình nể nang, do sự chỉ đạo thiếu chặt chẽ của các chi uỷ, đảng uỷ và các cơ quan có trách nhiệm cấp trên... Các cấp uỷ tỉnh, thành phố cần tiến hành kiểm tra công tác phát thẻ Đảng và chỉ đạo tốt việc tổng kết công tác này ở từng chi bộ, từng tổ chức cơ sở đảng. Nơi nào phát thẻ Đảng rồi nhưng chưa làm tốt thì phải đưa ra chi bộ xem xét lại lấy ý kiến của quần chúng và thu hồi lại thẻ Đảng đối với những người đã được phát thẻ không đúng.
Việc tiến hành tổng kết công tác phát thẻ Đảng phải là một cuộc sinh hoạt chính trị rộng lớn trong toàn Đảng, được tiến hành từ chi bộ trở lên, trên cơ sở quán triệt Nghị quyết của Đại hội lần thứ V về công tác đảng viên. Trong cuộc sinh hoạt chính trị này, chúng ta sẽ kiện toàn tốt các đảng uỷ, phát huy dân chủ nội bộ để kiểm tra tư cách đảng viên, biểu dương những tiến bộ của đảng viên từ sau khi nhận thẻ Đảng và tiếp tục nâng cao chất lượng đảng viên, đưa người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng.
Cần kiên quyết đưa ra khỏi Đảng tất cả những phần tử xấu hư hỏng, cơ hội, thoái hoá, biến chất, tê liệt ý chí cách mạng, không còn tín nhiệm với quần chúng. Cũng cần đưa ra khỏi Đảng những người ý chí chiến đấu sa sút, bạc nhược, chỉ chăm lo vun vén cho gia đình bản thân mà không làm nhiệm vụ được giao hoặc làm một cách chiếu lệ, cốt để có danh nghĩa đảng viên, không còn tác dụng lãnh đạo quần chúng. Không vì lý do gì mà để lại trong Đảng những người như vậy, dù trong quá khứ họ có thành tích, dù họ không phạm sai lầm gì về tư cách của người công dân.
Đã từ lâu, chúng ta kiên trì giáo dục số đảng viên này; giữ gìn tình cảm của Đảng đối với các đồng chí đó là cần thiết, song tình cảm cao nhất vẫn phải vì lợi ích của Đảng, của cách mạng. Nếu cứ tiếp tục để những đảng viên như thế ở trong Đảng thì chỉ làm giảm sức chiến đấu của Đảng, làm hạ thấp uy tín của tổ chức đảng. Việc đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng phải làm một cách kiên quyết và được chỉ đạo chặt chẽ. Nếu phải đưa ra nhiều người thì cũng phải kiên quyết làm không do dự; làm như vậy chắc chắc Đảng ta sẽ mạnh lên, công tác lãnh đạo của Đảng sẽ tốt hơn, lòng tin của quần chúng đối với Đảng sẽ tăng thêm.
Đối với những đảng viên do trình độ thấp, sức khoẻ kém, chúng ta cần có biện pháp kiên trì, giúp đỡ để tiến bộ; cần phân công hợp lý cho các đồng chí đó, cử đồng chí khá giúp đỡ tận tình. Còn đối với những đảng viên trình độ giác ngộ quá thấp, qua giáo dục của tổ chức đảng vẫn không tiến bộ thì phải đưa ra khỏi Đảng.
Không được lầm lẫn những người ý chí sa sút, không còn đủ tư cách đảng viên với các đồng chí tuổi già sức yếu thương tật, v.v. mà không còn đủ sức làm việc cần được nghỉ ngơi, an dưỡng. Đối với các đồng chí này, yêu cầu chính vẫn là giữ vững phẩm chất cách mạng.
Công tác phát triển Đảng là một việc phải làm thường xuyên, kịp thời. Chúng ta phải tích cực chỉ đạo việc kết nạp vào Đảng những người ưu tú trong phong trào quần chúng, nhất là những công nhân đã được giác ngộ về lý tưởng của Đảng, được bồi dưỡng, thử thách, có trình độ chính trị, có kiến thức văn hoá, khoa học, kỹ thuật và quản lý.
Công tác phát triển Đảng từ sau khi có Chỉ thị 72 của Ban Bí thư đã có những tiến bộ theo hướng bảo đảm chất lượng đảng viên. Với Chỉ thị đó, Đảng đã sửa được một bước những khuyết điểm về phương hướng giai cấp, về phương pháp và thủ tục. Song nhìn chung công tác phát triển Đảng vẫn còn chậm trễ, có địa phương hầu như đóng cửa Đảng, không kết nạp được bao nhiêu đảng viên mới. Nhiều cơ sở ở các tỉnh miền Nam và vùng rẻo cao miền núi có rất ít đảng viên nhưng vẫn không kết nạp đảng viên mới. Trong số đảng viên được kết nạp từ sau Đại hội lần thứ IV của Đảng, thì 59% đã được kết nạp trong quân đội.
Cần nhấn mạnh phải coi trọng hơn nữa việc xây dựng đội ngũ của Đảng trong giai cấp công nhân. Rất nhiều tỉnh, thành phố và khu công nghiệp đã phạm khuyết điểm ít chú trọng bồi dưỡng để kết nạp những công nhân ưu tú vào Đảng, thiếu kiểm tra đôn đốc rút kinh nghiệm để chỉ đạo công tác này, thiếu uốn nắn những nhận thức lệnh lạc đối với công nhân, nhất là đối với công nhân đã làm việc dưới chế độ cũ.
Sắp tới, ở các thành phố khu công nghiệp, việc kết nạp đảng viên mới chủ yếu phải từ trong công nhân. Nhiều đơn vị văn hoá, văn nghệ, cơ quan nghiên cứu khoa học ít kết nạp vào Đảng những văn nghệ sĩ, những chuyên gia về văn học, nghệ thuật, những nhà khoa học, các cán bộ có tài năng, có nhiều cống hiến và gắn bó với Đảng. Cần sửa chữa các khuyết điểm đó. ở các đơn vị này việc kết nạp đảng viên mới phải nhằm vào các đối tượng nói trên đây.
Cần khắc phục tình trạng có nơi chỉ kết nạp vào Đảng những người "tròn trĩnh", "dễ bảo", ngược lại có thành kiến và không dám bồi dưỡng để kết nạp những người trung thực, dám phê bình những khuyết điểm của đơn vị, của người phụ trách.
Các huyện uỷ, quận uỷ, các đảng uỷ cơ sở cần phát hiện ra những người trung thực đã dám vì sự nghiệp chung mà vạch trần khuyết điểm bảo vệ chân lý, và có biện pháp bồi dưỡng giáo dục để kết nạp họ vào Đảng khi có đủ tiêu chuẩn. Phải đưa công tác phát triển Đảng đi vào nền nếp và có quy hoạch, kế hoạch gắn liền với việc nâng cao chất lượng giáo dục sinh hoạt và hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Việc nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên đòi hỏi phải tiến hành đồng thời cả ba biện pháp: đưa người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng, kết nạp đảng viên mới và giáo dục bồi dưỡng đảng viên qua công tác, qua học tập, phê bình tự phê bình và sinh hoạt của Đảng.
Đặc biệt cần nhấn mạnh phải nâng cao chất lượng của sinh hoạt chi bộ, duy trì đều đặn chế độ sinh hoạt chi bộ. Chi bộ phải thật sự là nơi thảo luận một cách kỹ lưỡng các vấn đề về đường lối, chính sách, quan điểm của Đảng, nơi quán triệt và bàn biện pháp chấp hành triệt để nghị quyết của Đảng, nơi đấu tranh về quan điểm và nguyên tắc để bảo vệ đường lối và tổ chức của Đảng, nơi rèn luyện đảng viên về ý chí cách mạng, về năng lực lãnh đạo. Không được lẫn lộn sinh hoạt của chi bộ với sinh hoạt của công đoàn của cơ quan hành chính, chuyên môn nghiệp vụ, hoặc của tổ chức sản xuất. Phải thực hiện phê bình và tự phê bình thẳng thắn và trên tinh thần đồng chí trong chi bộ trên những vấn đề về đường lối, chính sách, nguyên tắc tổ chức của Đảng, phẩm chất cách mạng của cán bộ, đảng viên. Không nên tích luỹ những thiếu sót cụ thể có thể giúp nhau sửa chữa hằng ngày để đưa ra phê bình ở hội nghị chi bộ.
Để nâng cao chất lượng đảng viên, một vấn đề mấu chốt là phải nâng cao chất lượng của cán bộ chủ chốt ở các đơn vị cơ sở. Các đảng ủy, trước hết là các bí thư đảng uỷ, bí thư chi bộ phải thật sự có đủ phẩm chất và năng lực; phải được sự bồi dưỡng chỉ đạo và kiểm tra thường xuyên của tổ chức đảng cấp trên; phải chịu sự giám sát và phê bình kịp thời của tập thể cấp uỷ, của đảng viên và quần chúng. Ban Bí thư Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo chương trình bồi dưỡng hằng năm cho bí thư đảng uỷ cơ sở và một số đảng uỷ viên về những vấn đề chung cần thiết cho sự lãnh đạo của Đảng và giao cho các tỉnh uỷ, thành uỷ hướng dẫn thêm các nội dung mà địa phương thấy cần quan tâm. Ban Tuyên huấn Trung ương phối hợp với các ban để soạn chương trình bồi dưỡng này.
6. Theo quy hoạch cán bộ, đào tạo, bố trí đúng và đổi mới đội ngũ cán bộ chủ chốt từ trên xuống dưới
Sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc càng phức tạp, vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng tăng thì vị trí quyết định của công tác cán bộ, đặc biệt là của việc bồi dưỡng đào tạo, bố trí đội ngũ cán bộ chủ chốt càng lớn. Kinh nghiệm thực tiễn đã chỉ rõ, sự chính xác của đường lối, chính sách và thành công của việc thực hiện đường lối, chính sách ấy đều tuỳ thuộc cuối cùng ở chất lượng của công tác cán bộ.
Đảng ta đã thành công trong việc đào tạo, bố trí đội ngũ cán bộ chủ chốt tuyệt đối trung thành với cách mạng, đáp ứng các yêu cầu của cách mạng dân tộc dân chủ; song, chuyển sang giai đoạn mới, sự chậm trễ trong việc bồi dưỡng, bố trí cán bộ theo yêu cầu của lãnh đạo và quản lý kinh tế - xã hội, đang là một khuyết điểm lớn.
Sự chuyển hướng của giai đoạn cách mạng, sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế sang phương thức hạch toán và kinh doanh xã hội chủ nghĩa càng đòi hỏi phải gấp rút bồi dưỡng và bố trí cán bộ theo yêu cầu mới. Chúng ta phải làm việc đó một cách khẩn trương, nhưng phải theo một trình tự thích ứng với tính khoa học của quá trình đưa sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa đi lên một cách có kế hoạch.
a) Trước hết phải thường xuyên chăm lo xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Muốn có đủ cán bộ có chất lượng để chủ động đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ thì vấn đề cơ bản là phải có quy hoạch cán bộ, trên cơ sở đó có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo yêu cầu trước mắt và lâu dài, không phải chỉ 5 năm, 10 năm mà còn xa hơn nữa. Đây là khâu trung tâm của toàn bộ công tác cán bộ. Đối với cán bộ lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nguồn đào tạo chính là từ cán bộ đã qua thực tiễn công tác, sản xuất, chiến đấu từ cơ sở lên, từ trong phong trào và công tác thực tế của từng ngành mà lựa chọn những người có triển vọng để đưa đi bồi dưỡng, đào tạo. Nhìn một cách xa hơn, phải tạo ra một nguồn dự trữ rộng rãi ngay từ khi tuyển sinh vào các trường Đảng và các trường đại học để đào tạo thành cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, cán bộ kinh tế, kỹ thuật ở cơ sở. Theo chủ trương của Đảng, làm kế hoạch chiêu sinh về cơ bản cũng là làm kế hoạch phân phối, phải đổi mới phương pháp tuyển sinh vào các trường đào tạo nói trên. Đào tạo cho cấp nào, địa phương nào, ngành nào cần chú trọng lấy ngay những cán bộ, công nhân, xã viên ở ngành đó, địa phương đó, đã qua thử thách trong phong trào quần chúng và đã làm tròn nghĩa vụ quân sự nếu là thanh niên. Phải chú trọng khắc phục tình trạng mất cân đối trong việc đào tạo cán bộ khoa học, kỹ thuật. Khắc phục tình trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ một cách tràn lan, không tính toán hiệu quả. Coi trọng đào tạo cán bộ từ công nhân, nữ, người dân tộc, cán bộ tại chỗ cho địa phương, cơ sở, nhất là ở miền Nam, miền núi. Có chính sách chế độ, biện pháp cụ thể thích hợp để nhanh chóng đào tạo đội ngũ này.
Bên cạnh việc đào tạo cán bộ mới, phải khẩn trương có kế hoạch bồi dưỡng cho số cán bộ chủ chốt đương chức chưa được học tập theo một chương trình thích hợp với từng vùng, từng miền. Có kế hoạch bổ túc những vấn đề mới về lý luận, đường lối, chính sách, quản lý kinh tế, những phát triển mới về khoa học - kỹ thuật cho cán bộ lãnh đạo.
Chú ý khắc phục tình trạng xem nhẹ việc bồi dưỡng cho học viên, cán bộ trong các trường Đảng về phong cách làm việc, phương pháp lãnh đạo, các quy tắc sinh hoạt của Đảng, về cơ chế tổ chức, chế độ làm việc và cách tiến hành công việc của người cán bộ lãnh đạo.
Cần kiên quyết đưa cán bộ chủ trì và cán bộ dự bị đi bồi dưỡng trước theo kế hoạch, chấm dứt tình trạng cử cán bộ thứ yếu đi thay chỉ vì lý do "bận việc".
b) Khẩn trương sắp xếp, bố trí lại cán bộ. Cần có một sự quyết đoán dứt khoát để thực hiện những sự thay đổi về tổ chức và nhân sự đã rõ là không đáp ứng được nhiệm vụ, trước hết đối với cán bộ chủ trì ở các cấp, các ngành và ở các cơ quan, đơn vị quan trọng
Cán bộ lãnh đạo ở mọi cấp, mọi ngành, theo cách nhìn của quần chúng, chính là người đại diện cho Đảng, bảo đảm cho đường lối của Đảng được thực hiện và là người thể hiện hiệu lực của Nhà nước chuyên chính vô sản. Sự đổi mới trong cơ chế quản lý kinh tế đặt ra cho sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước những yêu cầu mới rất cao. Tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực đối với cán bộ lãnh đạo do đó có bước phát triển mới rất cao về chất lượng. Việc đòi hỏi phải có một sự đổi mới về chất lượng trong đội ngũ cán bộ chủ chốt ở các cấp, các ngành do đó là một tất yếu khách quan.
Lâu nay, cán bộ thường thiếu tin tưởng vào hiệu lực của các nghị quyết chính là vì trong khâu thực hiện nghị quyết, chúng ta thường thiếu quyết tâm, thiếu dứt khoát, nhất là trong việc thay đổi, bố trí lại số cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ chốt của các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở đã rõ là không tương xứng với cương vị đang đảm nhiệm.
Một thời gian dài trước đây, khi bố trí cán bộ chủ chốt, chúng ta thường có khuyết điểm hay chuyển cán bộ từ vị trí này sang vị trí khác ở cấp tương đương, ngay cả khi người cán bộ có khuyết điểm hoặc chuyển cán bộ từ ngành này sang ngành khác, ít chú trọng đề bạt cán bộ trong ngành từ dưới lên, khiến cho nhiều cán bộ làm việc không có hiệu quả, không phù hợp với khả năng công tác; nhiều trường hợp lại thay đổi luôn làm cho cán bộ chưa kịp phát huy tác dụng.
Sự bố trí đó dẫn đến cán bộ không chuyên sâu, không bảo đảm các nhiệm vụ lãnh đạo và quản lý.
Việc bố trí cán bộ vẫn còn bị ảnh hưởng bởi những quan điểm phong kiến về cấp bậc, chức vụ trong Đảng và trong bộ máy nhà nước, bởi những nhận thức chủ quan do không hiểu người và hiểu việc, bởi sự quan liêu và cũ kỹ trong công tác quản lý cán bộ.
Phải kiên quyết thực hiện Nghị quyết số 10 NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương và Nghị quyết số 32 NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác tổ chức; nắm thật vững quan điểm "phải hoàn toàn xuất phát từ công việc, từ yêu cầu của kinh tế - kỹ thuật mà đặt tổ chức, bố trí cán bộ".
Chúng ta cần xác định rõ tiêu chuẩn cán bộ theo từng chức danh. Có tiêu chuẩn cán bộ rõ ràng, chúng ta sẽ dành thời gian cần thiết và tạo điều kiện cho những cán bộ có khả năng đáp ứng tiêu chuẩn ấy vươn lên làm tốt công việc được giao. Đối với những đồng chí đã rõ là không đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ thì cần kiên quyết và nhanh chóng đưa xuống hoặc bố trí sang một công tác thích hợp hơn; nếu đã tới tuổi hưu thì để nghỉ hưu; không vì "chính sách cán bộ" mà để giữ chức vụ cũ, hoặc vì "chính sách cán bộ" mà tìm cách bố trí "vị trí tương xứng" cho cán bộ. Cần coi "có lên, có xuống" là việc bình thường trong bố trí cán bộ; phải đặt lợi ích công việc lên trên hết, không nên vì nể nang, cảm tình mà do dự trong việc bố trí cán bộ để ảnh hưởng không tốt đến công việc. Những cán bộ có phẩm chất và có năng lực xét thật sự có thể đảm đương được nhiệm vụ mới thì đề bạt vượt cấp.
Trong tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng, của Nhà nước ở các cấp, các ngành, các đơn vị, chúng ta cần chú ý đầy đủ đúng mức đến tiêu chuẩn chính trị, tiêu chuẩn chuyên môn và khả năng lãnh đạo, nhưng phải lấy hiệu quả công việc làm thước đo cuối cùng của tiêu chuẩn.
Sự tuyệt đối trung thành với cách mạng, sự nhất trí với đường lối của Đảng là đòi hỏi hết sức cần thiết đối với mọi cán bộ của Đảng và Nhà nước. Đối với cán bộ lãnh đạo, ngoài nội dung đó, tiêu chuẩn chính trị còn phải thể hiện ở trình độ chính trị và mẫu mực về đạo đức xã hội chủ nghĩa, mà điều cần nhấn mạnh là đức tính liêm khiết, sự thẳng thắn đấu tranh chống tiêu cực; không được đặt lợi ích của cá nhân, của gia đình, của bè bạn lên trên lợi ích của tập thể và của toàn xã hội; không đặt lợi ích cục bộ, của địa phương lên trên lợi ích của Nhà nước, của toàn xã hội.
Đã là cán bộ lãnh đạo của Đảng, của Nhà nước, thì đều phải có kiến thức chuyên môn, trình độ quản lý kỹ thuật, nghiệp vụ tuỳ theo tính chất và cương vị công tác. Trong điều kiện mới, việc xem xét bằng cấp và học lực đã qua là cần thiết, nhưng không được máy móc, chỉ thiên về bằng cấp, mà còn phải xem xét kinh nghiệm và khả năng thực tế và cả kiến thức tự học của cán bộ.
Về khả năng lãnh đạo, phải chú trọng khả năng điều hành bộ máy, tập hợp được cán bộ và lao động dưới quyền, tinh thần dám quyết định và dám chịu trách nhiệm để hoàn thành nhiệm vụ.
Cần có biện pháp kết hợp các loại cán bộ cũ và mới để hạ thấp tuổi đời bình quân hiện còn cao của đội ngũ cán bộ chủ chốt, bảo đảm tính kế thừa trong xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở mỗi cấp, mỗi ngành. Cần làm trẻ đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt, mạnh dạn đề bạt những nhân tài, những cán bộ có triển vọng từ dưới lên, nhất là cán bộ trưởng thành từ cơ sở. Khắc phục thiên hướng bảo thủ, cũ kỹ, không vì việc mà bố trí người. Kiên quyết xoá bỏ tình trạng thiếu tin ở cán bộ, giao cho cán bộ chủ chốt kiêm nhiệm nhiều chức vụ chỉ vì "uy tín" cá nhân, dẫn đến làm việc không thực chất và nhiều việc không có người chuyên trách.
Các thứ trưởng không kiêm giám đốc các đơn vị sản xuất
- kinh doanh, các bí thư đảng uỷ không được kiêm giám đốc.
Phải mạnh dạn thay đổi ngay những cán bộ chủ trì ở những cơ quan, đơn vị hiện không đủ sức tiếp thu đường lối, chính sách của Đảng và những người thực sự không còn đủ sức để điều hành công việc một cách sâu sát, nhạy bén, có hiệu quả.
c) Vấn đề không kém phần quan trọng là phải đổi mới phương pháp chọn và quản lý cán bộ. Việc đổi mới công tác này phải theo các nguyên tắc: bảo đảm sự lãnh đạo và quyền quyết định tập thể của tổ chức đảng đối với việc đề bạt cán bộ chủ chốt, thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc đề bạt, lựa chọn, thi hành kỷ luật đối với cán bộ; quản lý người phải gắn với quản lý và kiểm tra công việc, có thái độ khách quan nghiêm túc trong đánh giá cán bộ, tiếp xúc với cán bộ và kịp thời giúp cán bộ phát huy ưu điểm, sửa chữa các khuyết điểm. Cần chống quan liêu hình thức trong việc quản lý cán bộ.
Bố trí, đề bạt cán bộ phải theo quy chế kết hợp giữa tự phê bình của cán bộ với nhận xét của cơ quan quản lý cán bộ, tham khảo ý kiến của cán bộ, đảng viên và quần chúng biết người, hiểu việc, nhất là cán bộ dưới quyền có quan hệ mật thiết, và tập thể có thẩm quyền quyết định. Chú trọng lấy ý kiến dân chủ để tham khảo cả khi "đưa lên và đưa xuống", nhưng phải xem xét kỹ nội dung các ý kiến, không máy móc, đơn giản, nhất là ở nơi nội bộ có vấn đề bè phái.
Phải đổi mới chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức, kiện toàn các ban, nhất là ban tổ chức các cấp và các vụ, các phòng tổ chức ở các ban, các bộ, các sở, các tổ chức sản xuất, kinh doanh, giao cho các ban giúp cấp uỷ quản lý cán bộ chủ chốt ở từng lĩnh vực, có sự phối hợp của Ban Tổ chức Trung ương và các cấp. Người phụ trách công tác ở từng bộ phận phải trực tiếp quản lý cán bộ dưới quyền; cán bộ lãnh đạo phải trực tiếp giúp đỡ cán bộ, tìm ra và bồi dưỡng cán bộ có tài.
Các chi bộ, các ban chấp hành Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ phải phát hiện các nhân tài ở địa phương, đơn vị, ngành, giới mình để đề nghị với Trung ương và cấp uỷ lựa chọn và có kế hoạch bồi dưỡng. Việc này cần phải được quy định thành chế độ.
d) Để đáp ứng sự đổi mới trong công tác bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ, cần đổi mới một cách có hệ thống các chính sách, chế độ đãi ngộ khen thưởng đối với cán bộ cho phù hợp với cơ chế quản lý mới và với vị trí mới của các tổ chức, nhằm khuyến khích phát triển tài năng của cán bộ. Đảng phải chú trọng chăm lo đời sống tinh thần và vật chất của cán bộ hoạt động lâu năm, cán bộ có công lao, cán bộ nghỉ hưu, bằng các chính sách, chế độ, thể hiện sự tôn trọng, tình cảm và sự chăm sóc của Đảng, của nhân dân đối với các đồng chí đó; phải có tổ chức để thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các chính sách, chế độ ấy. Phải có chính sách, chế độ cụ thể nhằm phát huy tác dụng lâu dài của các chuyên gia giỏi về mọi lĩnh vực. Khắc phục những quan điểm phong kiến trong việc nghiên cứu và chấp hành chính sách, chế độ. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở là một chính sách lớn của Đảng; các chính sách chế độ đãi ngộ đối với cán bộ cơ sở cần được đổi mới cho phù hợp với tầm quan trọng của các đơn vị cơ sở.
7. Phải đổi mới phương pháp làm việc, xây dựng phong cách làm việc lêninnít của Đảng.
Đây là một vấn đề lớn trong công tác lãnh đạo của Đảng ta. Thực tế đã chỉ rõ, phương pháp và chế độ làm việc đúng là một yếu tố đặc biệt trọng yếu để bảo đảm tính chính xác của việc ra các quyết định và biến nó thành hiện thực.
a) Trước hết phải dứt khoát đổi mới phương pháp chuẩn bị và ra các quyết định, nhất là đối với các vấn đề kinh tế, theo hướng nâng cao tính khoa học trong phương pháp làm việc.
Điều cốt yếu để đề ra các quyết định chính xác là phải nắm chắc tình hình thực tế, bảo đảm thông tin chính xác. Điều đó đòi hỏi không phải chỉ có sự sâu sát thực tế của cán bộ lãnh đạo, mà còn đòi hỏi phải hết sức coi trọng kiện toàn tổ chức, đổi mới cách nghiên cứu và nắm tình hình của các cơ quan tham mưu. Các cơ quan nghiên cứu phải tổng hợp tình hình, xử lý thông tin để đề ra phương án dựa trên cơ sở thông tin chính xác. Cơ quan, bộ phận thông tin tổng hợp phải thông tin nhanh, chọn lọc thông tin để thông báo, báo cáo kịp thời giúp cho cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo việc nghiên cứu và giải quyết các vấn đề một cách đích đáng. Phải coi trọng ý kiến của quần chúng, tổng hợp được ý kiến của cấp dưới.
Việc chuẩn bị các quyết định quan trọng phải dựa trên cơ sở nghiên cứu các phương án khác nhau, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có trách nhiệm ở các cấp, các ngành, sử dụng rộng rãi thành quả nghiên cứu của các viện, lấy ý kiến của những người am hiểu vấn đề. Những vấn đề mới, phức tạp và đặc biệt quan trọng cần được Bộ Chính trị, Ban Bí thư trực tiếp chỉ đạo làm thử, lấy kết quả thực tế của việc làm thử mà ra quyết định.
Phải chuẩn bị kỹ đến mức trước khi ra quyết định, về cơ bản đã rõ lý lẽ để nhất trí hoặc lựa chọn các phương án. Trường hợp chưa nhất trí thì phải thảo luận triệt để, không vì nể nang, e dè mà dung hoà ý kiến, ra quyết định nửa vời, gây nên tác hại về nhiều mặt: hiểu và thực hiện nghị quyết không thống nhất, gây phân tán, làm giảm hiệu lực của kỷ luật chấp hành quyết định.
Phải coi trọng tạo điều kiện để các quyết định của Đảng và Nhà nước được dựa trên cơ sở phân tích khoa học. Các kế hoạch, chính sách, chủ trương kinh tế phải được xét toàn diện, sâu sắc, tính toán cụ thể. Phải đẩy mạnh điều tra cơ bản, tăng cường công tác thống kê, nắm chắc tình hình, phân tích tình hình để phục vụ cho yêu cầu của lãnh đạo.
Phải xây dựng từ trên xuống dưới quy trình ra quyết định theo tinh thần bảo đảm không ra quyết định khi chưa có thông tin đầy đủ, không ra quyết định khi chưa có phương án tính toán hiệu quả, không ra quyết định khi chưa tuân thủ các thủ tục để ra quyết định.
b) Ra quyết định đúng chỉ mới đặt cơ sở cho phương hướng hành động. Vấn đề trọng yếu là tổ chức thực hiện các quyết định để biến nó thành hiện thực. Nếu xem việc nghiên cứu ra quyết định là một thì việc tổ chức thực hiện phải là mười. Kiên quyết khắc phục tình trạng đánh trống bỏ dùi, thỏa mãn với việc ra các quyết định. Phải có kế hoạch thi hành nghị quyết, phân công rõ người, cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện, định thời gian hoàn thành, định rõ người và cơ quan theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện. Những nghị quyết lớn của Đảng phải được cụ thể hóa kịp thời thành các chính sách, chủ trương, biện pháp cụ thể về mặt Nhà nước để triển khai việc thi hành nghị quyết được nhanh chóng. Những vấn đề chưa có kinh nghiệm thì phải chỉ đạo thí điểm trước khi mở rộng ra diện.
Nghệ thuật lãnh đạo và quản lý là phải biết tập trung sức và sự chú ý vào chỗ nào, vào khâu nào; phải đặc biệt coi trọng công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, khen thưởng, kỷ luật kịp thời.
c) Sự đổi mới phương pháp ra quyết định và tổ chức thực hiện các quyết định theo yêu cầu trên đây là một bộ phận quan trọng củaphương pháp và phong cách làm việc lêninnít. Chúng ta còn phải làm nhiều việc để thực hiện bằng được phong cách này trong cải tiến sự lãnh đạo của Đảng.
Phải nắm vững hơn nữa yêu cầu thực hiện sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, giữa lời nói với việc làm, giữa chính sách và tổ chức. Sự tách rời nghiêm trọng hiện nay giữa các mặt đó là một nguyên nhân quan trọng của tình trạng kém hiệu lực trong tổ chức thực hiện.
Phải thực hiện sự thống nhất giữa tính cách mạng và tính khoa học trong mọi công việc, gắn nhiệt tình cách mạng với hành động có tổ chức và với phương pháp tốt. Đảng phải đào luyện cho đội ngũ cán bộ một nếp suy nghĩ thiết thực, cụ thể, một thói quen làm việc có tính toán hiệu quả. Phải gấp rút bồi dưỡng cho cán bộ lãnh đạo về khoa học lãnh đạo và khoa học quản lý.
Phải làm việc theo chức trách và chế độ công tác, không được tuỳ tiện làm theo ý riêng của từng người phụ trách. Từ trung ương xuống các cấp đều phải xây dựng và sử dụng tốt tổ chức. Bộ máy phải tinh, người điều hành phải thật sự là người có năng lực, có kiến thức. Trên cơ sở chức trách chế độ công tác, phải kiểm điểm việc thực hiện các quyết định, có biểu dương, khen thưởng và kỷ luật kịp thời.
Phải thực sự thực hiện phong cách tự phê bình trong Đảng và trước quần chúng; thực sự bàn bạc với dân cách giải quyết các khó khăn trong quá trình quản lý để đưa phong trào liên tục đi lên. Phải định kỳ ba tháng hoặc sáu tháng và khi có công tác lớn, thực hiện chế độ hỏi dân, lấy ý kiến của dân, tổ chức cho quần chúng phê bình cán bộ, đảng viên và cơ quan của Đảng, của Nhà nước. Phải nghiêm túc phân tích dư luận xã hội để kịp thời đề ra các chủ trương chính sách.
8. Coi trọng và luôn luôn tăng cường công tác kiểm tra của Đảng
Công tác kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo chủ yếu của Đảng, một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng, nhất là trong hoàn cảnh Đảng lãnh đạo chính quyền.
Hiệu lực tổ chức chỉ đạo thực hiện đòi hỏi phải hết sức coi trọng và tăng cường công tác giám sát và kiểm tra việc thực hiện các quyết định. Phải có chương trình và kế hoạch tổ chức công tác kiểm tra một cách chu đáo. Trong chương trình công tác của Ban Bí thư Trung ương Đảng và của Ban Thường vụ các cấp uỷ phải có chương trình kiểm tra.
Cần tăng cường công tác kiểm tra của Đảng. Công tác này phải được nâng lên trình độ khoa học, bảo đảm kịp thời, chính xác và có hiệu quả cao.
Đây là một công tác trọng yếu mà các cấp uỷ, các Uỷ ban kiểm tra và các ban của Đảng phải tiến hành một cách có kế hoạch.
Việc kiểm tra các vấn đề chung về chấp hành đường lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng để đôn đốc, uốn nắn việc chấp hành phải do cấp uỷ và các ban theo chức trách và phạm vi công tác của mình bảo đảm.
Công tác kiểm tra các vụ đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng nhằm vào các vụ vi phạm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật nhà nước, tư cách đảng viên; kiểm tra việc thi hành kỷ luật trong Đảng, kiểm tra tài chính của Đảng, v.v. theo quy định của Điều lệ Đảng, phải do Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và các cấp thực hiện. Công tác này có ý nghĩa rất trọng yếu để giữ gìn kỷ luật của Đảng, góp phần xây dựng Đảng vững mạnh, trong sạch. Phải coi trọng kiện toàn Uỷ ban kiểm tra các cấp.
Mọi việc đều phải được kiểm tra chặt chẽ, mọi ngành đều phải tăng cường công tác kiểm tra của mình.
Nâng cao chất lượng và hiệu lực công tác kiểm tra của Đảng phải gắn chặt với nâng cao hiệu lực công tác kiểm tra của Nhà nước và công tác kiểm tra có tính chất quần chúng, của mạng lưới kiểm tra nhân dân. Lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không có lãnh đạo.
Kết luận
Coi trọng chất lượng và hiệu quả của công tác xây dựng Đảng
Thưa các đồng chí,
Những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam cũng là thắng lợi của công tác xây dựng Đảng. Chúng ta có sáng tạo trong công tác này, đã đạt những kết quả và có những kinh nghiệm quý báu về mặt này. Rất nhiều cấp uỷ, chi bộ, đảng bộ, đảng viên trong công tác thực tế đã sáng tạo ra những kinh nghiệm quý về công tác tư tưởng và công tác tổ chức.
Chúng ta khẳng định những ưu điểm cơ bản của Đảng và của đội ngũ cán bộ, đảng viên, song cũng thấy rõ những nhược điểm, khuyết điểm rất lớn của Đảng và của công tác xây dựng Đảng, nhất là ở các lĩnh vực kinh tế, xã hội.
Thực tế tình hình công tác tư tưởng và tổ chức của Đảng hiện nay nói lên rằng chất lượng và hiệu quả của công tác xây dựng Đảng chưa tương xứng với đòi hỏi của nhiệm vụ chính trị và công sức đã bỏ ra.
Có những nghị quyết, chỉ thị đúng đắn về xây dựng Đảng, về tổ chức, cán bộ vẫn không được quán triệt sâu sắc và thực hiện triệt để. Có những việc làm quan trọng nhưng không được sơ kết, tổng kết kịp thời để đánh giá kết quả.
Trước hết phải nói rằng công tác xây dựng Đảng một thời gian dài chưa gắn chặt với nhiệm vụ chính trị, biểu hiện ở khuyết điểm lớn là chưa bảo đảm tốt việc cụ thể hoá đường lối, chưa gắn chặt với việc xây dựng cơ chế quản lý kinh tế, không coi trọng kiện toàn tổ chức và bồi dưỡng cán bộ để thúc đẩy việc xây dựng cơ cấu kinh tế mới và phương thức quản lý mới.
Công tác xây dựng Đảng chưa được coi là nhiệm vụ hàng đầu của các cấp uỷ đảng. Có nhiều cấp uỷ, cán bộ, đảng viên không nghiên cứu Điều lệ Đảng để chấp hành đúng, mà thường chờ đợi hoặc ỷ lại vào các hướng dẫn của cấp trên.
Nhiệm vụ của chúng ta là phải xem trọng việc phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm trên đây để nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác xây dựng Đảng, công tác tổ chức, công tác tư tưởng, chống buông lỏng các công tác này.
Phải chống bệnh quan liêu và bệnh hình thức trong công tác xây dựng Đảng. Điều quan trọng là phải tăng cường công tác kiểm tra để thúc đẩy việc thực hiện các nghị quyết, phổ biến những kinh nghiệm tốt, uốn nắn các lệch lạc, giảm bớt các giấy tờ, hội nghị không cần thiết.
Phải chấp hành nghiêm túc Điều lệ Đảng. Mỗi cấp uỷ, mỗi chi bộ và cán bộ, đảng viên phải nghiên cứu kỹ Điều lệ Đảng, các văn kiện đã được tổng kết về xây dựng Đảng ở Đại hội IV và Đại hội V của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác này để chủ động chấp hành. Đó là cơ sở chính để mỗi cấp uỷ tiến hành chỉ đạo công tác xây dựng Đảng. Phải có kỷ luật nghiêm đối với các cấp uỷ, các cán bộ, đảng viên trong việc chấp hành Điều lệ Đảng. Những khuyết điểm hiện nay, suy cho cùng chính là đã không chấp hành nghiêm chỉnh Điều lệ Đảng.
Công tác xây dựng Đảng phải thật sự là công tác của toàn Đảng. Mỗi cấp uỷ, mỗi cơ quan giúp việc, mỗi cán bộ, đảng viên đều có trách nhiệm xây dựng Đảng theo đúng cương vị và trách nhiệm của mình trên cơ sở tuân thủ Điều lệ Đảng, các phương châm xây dựng Đảng và các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương.
Các phương châm xây dựng Đảng phải được các cấp uỷ và cán bộ, đảng viên thấm nhuần để nâng cao chất lượng và nghệ thuật chỉ đạo công tác xây dựng Đảng. Phải tổng kết thực tế để hiểu các phương châm ấy một cách sâu sắc với nội dung mới. Hiểu và làm đúng phương châm sẽ có sáng tạo. Cùng với việc tổng kết thực tiễn của Đảng ta, phải coi trọng học tập kinh nghiệm về xây dựng Đảng của Đảng Cộng sản Liên Xô và của các đảng anh em là những đảng đã đi trước chúng ta trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Phải đổi mới về chất lượng đội ngũ chuyên trách làm công tác tổ chức, công tác tư tưởng
và công tác kiểm tra bằng cách vừa bồi dưỡng đội ngũ hiện có, vừa thay đổi những người không còn xứng đáng như kém phẩm chất, thiếu công tâm, không khách quan hoặc còn lợi dụng chức quyền, quan liêu, hống hách, thậm chí còn ăn hối lộ, "móc ngoặc"... Cần xây dựng cho từng cấp uỷ, từng cơ quan và mỗi cán bộ làm công tác nói trên một nếp suy nghĩ có tính toán hiệu quả và cách làm việc thiết thực trong chỉ đạo công tác tổ chức và công tác tư tưởng. Vũ trang cho cán bộ lãnh đạo, cán bộ tổ chức kiến thức về nhiều mặt, đặc biệt về lĩnh vực công tác mình phụ trách, về kiến thức quản lý kinh tế, khoa học kỹ thuật, khoa học tổ chức. Đó là những điều kiện tối cần thiết để giúp Trung ương và các cấp uỷ nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác xây dựng Đảng.
*
* *
Thưa các đồng chí đại biểu thân mến,
Trong hơn nửa thế kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua biết bao hy sinh gian khổ và đã giành được thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong quá trình đấu tranh lâu dài, được Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập, giáo dục và rèn luyện, Đảng ta từ trước đến nay rất xứng đáng với danh hiệu của một đảng Mác - Lênin chân chính, một đảng có đội ngũ kiên cường, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, với chủ nghĩa quốc tế vô sản, một đảng đoàn kết nhất trí về đường lối, luôn luôn xứng đáng với lòng tin cậy của nhân dân và của bè bạn khắp năm châu.
Những thắng lợi to lớn của cách mạng nước ta từ Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng đến nay cũng là thắng lợi của sự trưởng thành của Đảng. Những khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng và trong công tác lãnh đạo của Đảng phải được xem là những bài học kinh nghiệm mà qua đó, Đảng ta sẽ trưởng thành thêm gấp bội.
Công tác xây dựng Đảng vốn đã có tầm quan trọng và có tính quyết định đối với mọi thành quả của cách mạng, ngày nay, trước sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng rộng lớn, phức tạp, và trước sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hết sức khẩn trương, càng có tầm quan trọng và có tính quyết định đối với vận mệnh của đất nước ta.
Làm theo Điều lệ Đảng và Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính mến, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn kính mến, chúng ta quyết vươn lên về mọi mặt để "xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân".
Chúng ta tin tưởng rằng, với Nghị quyết của Đại hội toàn quốc lần này, trên cơ sở những kinh nghiệm đã tổng kết được từ thực tiễn và sự nỗ lực của toàn Đảng trong việc thực hiện các nhiệm vụ, chủ trương, biện pháp đề ra trên đây, công tác xây dựng Đảng đã vươn lên đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và nhất định sẽ góp phần quan trọng tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chuyên chính vô sản trong cả nước, bảo đảm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ do Đại hội đề ra.
Đảng Cộng sản Việt Nam:
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ V, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1982, t. III, tr. 5-129