Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm dự lễ 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969-2024):Giá trị, ý nghĩa và tầm vóc thời đại |
55 năm qua kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩnh biệt chúng ta, cùng với thời gian, Đảng và nhân dân ta ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về giá trị của bản Di chúc mà Người để lại.
Đây là một văn kiện lịch sử bất hủ, hội tụ trí tuệ, truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc với tinh hoa văn hóa của nhân loại, một tài sản vô giá của dân tộc Việt Nam.
Chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Trước hết, Di chúc của Người được kết tinh từ tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp của người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh. Đồng thời là nguồn động viên, cổ vũ hết sức to lớn, là sự chỉ dẫn quan trọng để quân và dân ta tiến lên giành những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội; là những chỉ dẫn cơ bản về đường hướng phát triển của cách mạng Việt Nam. Trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề đầu tiên được Người đề cập là công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, để Đảng ta trở thành một đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh.
Với tư cách là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng "trước hết phải có đảng cách mệnh”; “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”[1]. Theo Người, với tư cách lãnh đạo cách mạng, Đảng là “trí khôn”, “là bàn chỉ Nam” dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Để làm tròn vai trò, sứ mệnh của mình, phải thường xuyên chăm lo công tác xây dựng Đảng, để Đảng vững mạnh về mọi mặt. Muốn làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, vấn đề đoàn kết trong Đảng phải đặt lên hàng đầu.
Trong Di chúc, Người viết: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”[2].
Theo Người, sự đoàn kết chỉ có thể bắt nguồn từ một Đảng có đường lối chính trị đúng đắn, sự lãnh đạo sáng suốt của Ban Chấp hành Trung ương và mỗi đảng viên của Đảng, kiên quyết “một lòng, một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc”.
Đoàn kết trong Đảng chính là hạt nhân quan trọng để xây dựng, củng cố và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Muốn thực hành đoàn kết, thống nhất trong Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”[3].
Thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong 55 năm qua, Đảng ta hết sức chú trọng đến nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng; luôn xác định công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt; trong đó phải thường xuyên nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình trong Đảng, coi đó là nguyên tắc tồn tại của Đảng, là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa đã ban hành các Nghị quyết về đổi mới công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; xây dựng Cương lĩnh, Điều lệ Đảng (sửa đổi); đề ra những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng (Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII); các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI, XII, XIII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng).
Cùng với việc xây dựng và triển khai thực hiện các nghị quyết chuyên đề về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, liên tục trong nhiều năm qua, Bộ Chính trị phát động các đợt sinh hoạt chính trị trên phạm vi cả nước, với chủ đề: “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Vì vậy, các cấp ủy đã có sự chuyển biến, tiến bộ rõ rệt; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của nhiều chi bộ, đảng bộ và nhiều đảng viên đã tăng lên.
Điều đó thể hiện bằng tinh thần đấu tranh không khoan nhượng với các biểu hiện tư tưởng lệch lạc, sai lầm, phản động, độc hại; chống tham ô, tham nhũng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; kiên quyết đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; tăng cường sự thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận của xã hội.
Con người là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng
Một trong những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Người bổ sung vào bản Di chúc, là phần nói về con người: “Đầu tiên là công việc đối với con người”. Xuất phát từ quan điểm: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”, Người đề nghị Đảng, Nhà nước phải xác định chiến lược con người là một mục tiêu của sự nghiệp cách mạng. Con người trong tư tưởng, tình cảm của Hồ Chí Minh chính là nhân dân, là đồng bào nước Việt. Trong Di chúc, Người căn dặn: "Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân"[4].
Thực hiện di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ năm 1986, Đảng ta quyết tâm đổi mới, đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân. Năm 1989, nông dân được miễn giảm thuế và miễn thuế nông nghiệp theo đúng lời dặn trong Di chúc của Người. Xóa đói, giảm nghèo trở thành chủ trương lớn, được phát động trên quy mô rộng khắp; các đối tượng: Thương binh, con em các gia đình liệt sĩ được hưởng chính sách xã hội ngày càng cao; mức hưởng thụ đời sống tinh thần của nhân dân cũng ngày càng một nâng lên. Nhiều phong trào thi đua phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa được tổ chức đã tạo ra diện mạo mới ở nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân trên phạm vi cả nước.
Kết quả, từ một nước nông nghiệp nhưng thường xuyên thiếu lương thực, thực phẩm phải nhập khẩu, thực hiện Di chúc của Người: “Xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, chúng ta đã nỗ lực phấn đấu và trở thành một trong những quốc gia hàng đầu về xuất khẩu gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, cao su và các sản phẩm rau quả, thủy, hải sản đứng hàng đầu trên thế giới.
Từ một nước có tốc độ phát triển rất thấp, bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh, Việt Nam đã trở thành một trong những nước có tốc độ phát triển cao và ổn định ở khu vực; đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện cả về vật chất và tinh thần, trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân từng bước nâng cao, đó là những thành tựu hết sức quan trọng.
Tuy nhiên, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên lượng: “Công việc trên đây là rất to lớn, nặng nề và phức tạp, mà cũng rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”.
Cho nên cần phải xác định sự nghiệp đổi mới là “cuộc chiến đấu khổng lồ”, phải kiên trì, bền bỉ, sáng tạo. Phải nhận thức được rằng, nước ta hiện nay vẫn là một nước đang phát triển, khoảng cách phát triển giữa nước ta và các nước trong khu vực và trên thế giới còn lớn. Kinh tế nước ta có bước phát triển nhanh, nhưng chưa vững chắc, khoảng cách giàu nghèo ngày một gia tăng, nhiều vấn đề xã hội. Ô nhiễm môi trường, hạ tầng cơ sở giao thông... còn khá nhiều vấn đề bức xúc. Nguy cơ tụt hậu về kinh tế đang đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân ta những trách nhiệm nặng nề, đòi hỏi nhân dân ta phải phát huy mạnh mẽ hơn nữa sức mạnh nội lực của toàn dân tộc, tận dụng các cơ hội để vượt qua thách thức, xây dựng ý chí tự cường dân tộc, động viên mọi người vươn lên làm giàu chính đáng cho mình, cho cộng đồng và toàn xã hội, quyết tâm thoát khỏi đói nghèo, thực hiện thành công mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Về vấn đề quốc tế, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, “cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới”, sự đoàn kết và ủng hộ của cộng đồng quốc tế có vai trò to lớn đối với thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực cho phong trào cách mạng thế giới, vì hòa bình và phát triển. Trong Di chúc, Người nhắc nhở Đảng ta: “Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động góp phần đắc lực vào việc khôi phục khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”[5].
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã chỉ đạo xây dựng và thực thi đường lối đối ngoại “đa phương hóa, đa dạng hóa và rộng mở”; “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước”, tích cực, chủ động trong quan hệ hợp tác, hội nhập phát triển đất nước; từng bước phá vỡ thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch, đưa đất nước hội nhập ngày càng sâu với cộng đồng quốc tế, trước hết là với các nước trong khối Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Nhật Bản, Liên minh châu Âu (EU) và nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế khác.
Đã 55 năm trôi qua, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu vĩnh biệt chúng ta. Cả cuộc đời của Người thuộc về Tổ quốc, phụng sự cách mạng và nhân dân. Hình ảnh và tấm gương đạo đức vô song của Người cùng với bản Di chúc thiêng liêng mà Người để lại, mãi là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc và cách mạng Việt Nam; luôn thôi thúc toàn Đảng và toàn dân ta học tập, phấn đấu “xây dựng thành công một nước Việt Nam giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc” như sinh thời Người hằng mong muốn.
(Còn nữa)
------------------
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, NXBCTQG. H..2011, tr.289.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 15, NXBCTQG.H..2011, tr. 621-623.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, NXBCTQG.H..2011, tr. 621-623.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 15, NXBCTQG. H..2011, tr. 621-623.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 15, NXBCTQG.H..2011, tr. 621-623.