Cơ sở vật chất tiên tiến và hoàn chỉnh
Một hệ thống hoàn chỉnh và tiếp tục được hoàn chỉnh; rất nhiều những công trình hiện đại và đáng ngưỡng mộ; nhiều dự án phối hợp chi tiết, chỉn chu và đồng bộ, tạo nên một mạng lưới liên hoàn, phức tạp và quy mô để phục vụ mục tiêu phát triển nền công nghiệp khí ngày càng mở rộng… đó là hình dung tổng thể nhất, nhưng nhiều khi khó tin về cơ sở vật chất của PV GAS.
Hiện nay, hệ thống cơ sở vật chất của PV GAS bao gồm: Các hệ thống thu gom, vận chuyển, xử lý và phân phối khí: hệ thống thu gom, vận chuyển, xử lý và phân phối khí bể Cửu Long và bể Nam Côn Sơn cung cấp cho các khách hàng tiêu thụ tại khu vực Đông Nam bộ; hệ thống thu gom vận chuyển, xử lý và phân phối khí PM3 - Cà Mau cung cấp khí cho các khách hàng tiêu thụ tại khu vực Tây Nam bộ. PV GAS còn làm chủ một kho chứa LPG lạnh với sức chứa 60.000 tấn, lớn và hiện đại nhất Việt Nam; hệ thống tồn chứa và phân phối sản phẩm lỏng quy mô, bao gồm các kho chứa và cảng xuất sản phẩm lỏng, các hệ thống xuất sản phẩm lỏng bằng tàu và xe bồn... Tổng công suất tồn chứa của hệ thống gồm 92.000 tấn LPG, 46.000m3 Condensate. Ngoài ra, còn có hệ thống các trạm chiết nạp vào bình LPG trên khắp các tỉnh, thành phố của cả nước.
Với mục tiêu tận dụng lượng khí đồng hành để bù đắp sự thiếu hụt nguồn năng lượng quốc gia, PV GAS đã khẩn trương xây dựng và lần lượt đưa các công trình khí trong hệ thống vào hoạt động. Trải qua những tháng năm bền bỉ và kiên trì, đến nay, 3 hệ thống thu gom, vận chuyển và phân phối khí đã tương đối hoàn chỉnh với quy mô rộng, sẵn sàng tiếp ứng cho những dự án hiệu quả hơn nối kết và phát triển. Trong thời gian không dài, nhiều công trình khí đã được đưa vào vận hành không những sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên mà còn tạo động lực thúc đẩy sự phát triển các dự án khác trong khu vực, nhất là vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Cơ sở hạ tầng ngành công nghiệp khí Việt Nam đã thành hình, tương đối hoàn chỉnh từ các khâu thu gom, chế biến, vận chuyển, tàng trữ và phân phối. PV GAS tự tin quản lý các hệ thống khí với tổng tài sản gần 3 tỷ USD, trên 1.000 km đường ống biển bờ, 2 nhà máy xử lý khí, hệ thống các kho chứa LPG trên 90.000 tấn… có sản lượng cung cấp đứng thứ 5 khu vực Đông Nam Á.
Doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực khí
Với mục tiêu xây dựng PV GAS thành doanh nghiệp hàng đầu về quy mô sản xuất, kinh doanh và sức cạnh tranh trong lĩnh vực khí và phát triển công nghiệp hóa dầu từ khí và sản phẩm khí hoạt động cả ở trong và ngoài nước; cung cấp tối đa sản phẩm khí cho các nhà máy điện, đạm, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng và an ninh lương thực quốc gia, 25 năm qua, PV GAS đã luôn đi theo định hướng ấy và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình.
Trong công tác thu gom, chế biến, vận chuyển, xử lý, phân phối khí, PV GAS liên tục hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao về sản lượng, doanh thu, nộp ngân sách, lợi nhuận. Kể từ năm 1995 đến hết tháng 4/2015, PV GAS đã cung cấp cho thị trường trên 95 tỷ m3 khí khô, gần 8,6 triệu tấn LPG và trên 1,5 triệu tấn Condensate. Với việc quản lý và vận hành an toàn, liên tục các hệ thống thu gom, vận chuyển, tàng trữ, chế biến và phân phối khí từ các bể Cửu Long, Nam Côn Sơn (ở khu vực Đông Nam bộ) và Malay - Thổ Chu (khu vực Tây Nam bộ), hiện mỗi năm PV GAS cung cấp khí để sản xuất khoảng 35% sản lượng điện, 70% nhu cầu phân đạm và duy trì khoảng 70% thị phần LPG trong nước phục vụ các ngành công nghiệp và dân dụng của cả nước.
5 năm trở lại đây, PV GAS đạt tốc độ tăng trưởng bình quân về các chỉ tiêu chính như doanh thu 8%, nộp ngân sách 9%, lợi nhuận trước thuế 20%. Song song đó, PV GAS đã chủ động nỗ lực tìm kiếm các giải pháp kỹ thuật làm tăng tối đa hiệu suất thu hồi LPG tại nhà máy xử lý khí Dinh Cố lên khoảng 17,2 - 19,8 tấn/ngày, góp phần gia tăng sản lượng LPG. Thực hiện chỉ đạo của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), PV GAS đã triển khai thực hiện chương trình hành động, tiết giảm chi phí, giảm giá thành sản phẩm cũng như thu xếp, quản lý vốn và giá thành sản phẩm chặt chẽ và hiệu quả, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện tại các đơn vị. Kết quả bình quân mỗi năm PV GAS đã tiết giảm chi phí, giá thành sản phẩm khoảng 200 tỷ đồng từ chi phí quản lý, sáng kiến, cải tiến hóa sản xuất, tiết kiệm nguyên, nhiên vật liệu, năng lượng…
Về mặt kinh tế, với việc cung cấp khí của PV GAS đã tiết kiệm cho đất nước một khoản ngoại tệ nhiều tỷ USD kể từ năm 1995 đến nay bằng việc giảm lượng dầu DO nhập khẩu để phát điện và tiết kiệm cho ngành điện gần 10 tỷ USD từ chênh lệch giữa giá khí và giá dầu DO.
Không chỉ dừng lại với nguồn khí đầu vào là các mỏ trong nước, PV GAS còn quan tâm phát triển nhập khẩu khí và các sản phẩm khí từ nước ngoài để đáp ứng nhu cầu trong nước, chủ động trước tương lai gần khi nguồn cung khí nội địa không đủ để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường. PV GAS cũng chuẩn bị nhập khẩu LNG - một sản phẩm khí khác được làm lạnh để hóa lỏng đang được sử dụng khá phổ biến trên thế giới (đặc biệt là Nhật Bản, Hàn Quốc), mang lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng, bù đắp cho sự suy giảm sản lượng khí nội địa.
Cùng với hoạt động sản xuất, kinh doanh khí, PV GAS đã phát triển mạnh một số dịch vụ như vận chuyển khí, tàng trữ, vận chuyển condensate, bảo dưỡng sửa chữa nhiều công trình khí, sản xuất ống thép và bọc ống cho hoạt động dầu khí... Đến nay, PV GAS trở thành đơn vị bọc ống có thương hiệu trong khu vực và thực hiện hầu hết các dự án có liên quan đến bọc ống trong ngành dầu khí Việt Nam, sản xuất ống cho một số dự án/chủ đầu tư khác trong và ngoài ngành với 38.510 tấn ống thép được sản xuất, đạt doanh thu trong giai đoạn 2011 - 2014 trên 3.000 tỷ đồng. Với công suất hiện nay, PV GAS hoàn toàn có thể đáp ứng 100% nhu cầu ống thép và bọc ống dầu khí cho thị trường Việt Nam với chất lượng đạt chuẩn quốc tế, sẵn sàng mở rộng ra thị trường trong khu vực.
Là một trong những đơn vị dẫn đầu của ngành dầu khí về tổng doanh thu, nộp ngân sách và lợi nhuận, PV GAS đã đóng góp doanh thu cho ngành dầu khí hơn 475.000 tỷ đồng, nộp ngân sách nhà nước gần 51.000 tỷ đồng; hàng năm đóng góp khoảng 10% doanh thu toàn tập đoàn và trên 2% GDP cả nước; đóng góp cho các chương trình an sinh xã hội trung bình 100 tỷ đồng mỗi năm trên địa bàn cả nước. |
Bài 2: Hiệu quả lớn từ tái cấu trúc doanh nghiệp