13:13 | 08/01/2023
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng tổng kết thực tiễn, làm rõ những kinh nghiệm, những bài học có giá trị. Đó là cơ sở rất cần thiết và quan trọng để phát triển sáng tạo và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận của cách mạng Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: ''Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta''1. Người nhiều lần nhấn mạnh, lý luận là sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình lịch sử, đó là lý luận chân chính. Không coi trọng tổng kết kinh nghiệm, bài học sẽ không thể có lý luận, càng không thể phát triển lý luận. Và đương nhiên phát triển lý luận là để soi sáng thực tiễn bảo đảm cho thực tiễn vận động, phát triển đúng hướng có hiệu quả. Hồ Chí Minh cho rằng lý luận phải kết hợp chặt chẽ với thực tiễn.
Từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Đảng đã sớm nhận thức tầm quan trọng và ý nghĩa của những kinh nghiệm và bài học tổng kết từ quá trình lịch sử. “Tổng kết kinh nghiệm là một phương pháp hết sức quan trọng để nâng cao trình độ lý luận và năng lực công tác của cán bộ, đảng viên''2.
Quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam tại các Đại hội đại biểu toàn quốc đã tổng kết những bài học lớn có giá trị lý luận và thực tiễn. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng rõ hơn, đường lối, Cương lĩnh của Đảng ngày càng được bổ sung, phát triển hoàn thiện hơn mang lại những thành tựu to lớn, một phần rất quan trọng là dựa trên tổng kết những kinh nghiệm, những bài học đó.
Cương lĩnh là văn kiện cơ bản của Đảng định rõ mục tiêu chiến lược của sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc trong một thời kỳ tương đối dài, xác định lực lượng, động lực, phương hướng cơ bản và các giải pháp chủ yếu để thực hiện có hiệu quả mục tiêu và phương hướng đó. Để bảo đảm tính khoa học và hiện thực của Cương lĩnh, nhất thiết phải tổng kết chặng đường lịch sử đã qua với những kinh nghiệm, bài học cần thiết. Cương lĩnh năm 1991 do Đại hội VII Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua (6.1991) đã nêu lên 5 bài học chủ yếu. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) do Đại hội XI của Đảng thông qua (1.2011) cũng đã nêu bật 5 bài học chủ yếu. Đó là sự tổng kết 81 năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam và nhất là 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991.
''Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau''3. Đây là bài học lớn xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam có ý nghĩa như một quy luật phát triển tất yếu của cách mạng và dân tộc Việt Nam trong thời đại mới". Ngay từ Cương lĩnh đầu tiên (2.1930) Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh sáng lập đã xác định rõ con đường phát triển của cách mạng là làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập để đi tới xã hội cộng sản. Mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được kiên trì thực hiện trong tất cả các thời kỳ phát triển của cách mạng. Có thời kỳ, độc lập dân tộc đặt lên hàng đầu và trực tiếp, chủ nghĩa xã hội là định hướng đi tới (1930-1954); có thời kỳ cả hai mục tiêu chiến lược đó được thực hiện đồng thời, có quan hệ mật thiết và quyết định lẫn nhau (1954-1975) và từ sau 1975, nhất là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được nhận thức và thực hiện với những nội dung và thành tựu mới đã khẳng định giá trị khoa học và hiện thực của con đường gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn - sự lựa chọn dứt khoát từ năm 1930 khi Đảng ra đời.
Trong công cuộc đổi mới từ năm 1986, Đảng đã từ kinh nghiệm trong nước và quốc tế, sớm đề ra những nguyên tắc chỉ đạo quá trình đổi mới. Một trong những nguyên tắc đó là: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của nước ta, là sự lựa chọn sáng suốt của Bác Hồ và của Đảng ta. Xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, là lý tưởng của Đảng và nhân dân ta. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp''4.
Trải qua một phần tư thế kỷ đổi mới, nhận thức về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã không ngừng phát triển. Độc lập dân tộc là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo của Tổ quốc; là bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ cuộc sống của nhân dân; là bảo vệ công cuộc đổi mới và con đường phát triển độc lập tự chủ của đất nước; là bảo vệ giá trị truyền thống, và văn hóa dân tộc; là giữ gìn môi trường hòa bình, hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được Đảng và nhân dân Việt Nam nhận thức ngày càng sáng tỏ hơn cả về mục tiêu, mô hình; nội dung và khả năng bỏ qua chủ nghĩa tư bản để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội và những giải pháp cần thiết để thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Độc lập dân tộc là khát vọng cao cả của toàn dân tộc, mục tiêu chiến lược của Đảng, nhưng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh, nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì. Vì vậy, độc lập phải đi tới chủ nghĩa xã hội để giải phóng triệt để giai cấp, xã hội và con người, mang lại tự do, hạnh phúc thật sự cho mọi người. Cương lĩnh năm 2011 nêu rõ: Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.
“Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927) lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh nêu rõ: ''cách mệnh là việc chung của dân chúng chứ không phải việc một hai người''5. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân xuất phát từ quan niệm đúng đắn đó và đã được chứng minh trong lịch sử. Người nhấn mạnh: ''Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”6.
Sau 30 năm hoạt động, tranh đấu ở nước ngoài, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc ngày 28.1.1941, cùng Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Tại Pác Bó (Cao Bằng) Người đã trao đổi, thảo luận với đồng chí Võ Nguyên Giáp và các đồng chí trong nước, sự nghiệp bắt đầu từ đâu? Người nhấn mạnh, bắt đầu từ dân, dân trước súng sau, có dân sẽ có súng, có dân sẽ có tất cả. Đó là luận điểm có giá tri lớn lao, sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn như đồng chí Võ Nguyên Giáp đã nhiều lần đề cập. Nhờ sức mạnh toàn dân mà có được thắng lợi vẻ vang của Cách mạng tháng Tám năm 1945 mở ra thời đại mới trong lịch sử dân tộc, có được thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt chống đế quốc, thực dân, giành độc lập thống nhất hoàn toàn và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Bước vào công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đặt lên hàng đầu bài học: lấy dân làm gốc. Mục tiêu của đổi mới cũng nhằm xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội với chất lượng, hiệu quả cao chăm lo cải thiện đời sống của nhân dân. Cũng cần nhấn mạnh rằng, chính lợi ích, sáng kiến, nguyện vọng của nhân dân là nguồn gốc của đường lối đổi mới. Cũng chính nhân dân là người tích cực hưởng ứng, thực hiện đường lối đổi mới và mang lại lợi ích cho chính mình. Đảng, Nhà nước đã tổ chức, hướng dẫn, động viên cao độ sức dân để làm lợi cho dân. Sự thống nhất giữa đường lối của Đảng với lợi ích, nguyện vọng của nhân dân đã thật sự làm nên thắng lợi của công cuộc đổi mới. Cương lĩnh năm 2011 nhấn mạnh: ''Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”7.
''Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế''. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng Việt Nam. Trong Cương lĩnh đầu tiên tại Hội nghị thành lập Đảng (2.1930) Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nêu cao tư tưởng, đoàn kết mọi giai cấp, tầng lớp, lực lượng trong xã hội, đoàn kết và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng, xoá bỏ mọi thành kiến, xung đột của các tổ chức cộng sản trước đó. Nhờ đoàn kết mà cách mạng Việt Nam vượt qua biết bao thử thách khó khăn, có lúc tưởng chừng không vượt nổi để đi đến thắng lợi. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng củng cố đoàn kết toàn Đảng phấn đấu vì nước, vì dân. Đoàn kết toàn Đảng trước hết phải dựa trên nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đoàn kết dựa trên Cương lĩnh, đường lối và Điều lệ Đảng phấn đấu thực hiện mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đoàn kết phải dựa trên những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình có lý, có tình và thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng.
Đoàn kết toàn dân và đoàn kết dân tộc phải dựa trên phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ thật sự của nhân dân. Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung... để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội.
Đoàn kết quốc tế dựa trên chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân. Dựa trên việc thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; và lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh.
“Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế''. Khi đi tìm con đường giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức của chính mình để tự giải phóng. Đồng thời, Người cũng ra sức tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè, đồng chí quốc tế. ''Nhưng muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã''8.
Cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi là kết quả của ý chí tự lực tự cường của dân tộc Việt Nam quyết đem sức ta mà tự giải phóng cho ta, đồng thời tranh thủ được thời cơ thuận lợi khi chủ nghĩa phát xít đầu hàng đồng minh. Các cuộc kháng chiến oanh liệt chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược thắng lợi là nhờ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời có sự giúp đỡ to lớn, có hiệu quả của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, trong đó cả nhân dân tiến bộ Pháp và Mỹ.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng, Nhà nước bằng hệ thống chính sách, pháp luật đã khơi dậy mạnh mẽ mọi tiềm năng, thế mạnh của đất nước, đất đai và các tài nguyên khác, sức lao động và năng lực sáng tạo của nhân dân tạo thành nội lực to lớn của đất nước với ý chí vươn lên thoát khỏi đói nghèo, ra khỏi tình trạng nước kém phát triển. Mặt khác, với đường lối chính sách đối ngoại đúng đắn đã tranh thủ có hiệu quả vốn đầu tư của nước ngoài, đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế, kết hợp đúng đắn nội lực với ngoại lực.
Bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại được thể hiện xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam và ở mỗi thời kỳ cách mạng lại có những nội dung cần được nhận thức rõ và nhấn mạnh. Ngày nay, sức mạnh dân tộc ngoài những giá trị truyền thống cần phải nhấn mạnh tới những yếu tố căn bản nhất là sức mạnh và sự ổn định vững chắc của chế độ chính trị, của con đường phát triển đúng đắn của đất nước, ở nguồn nhân lực dồi dào cần được đào tạo ở trình độ cao, ở thế và lực đã được tạo dựng những năm qua. Sức mạnh thời đại trước hết là chủ nghĩa xã hội từ những kinh nghiệm thành công và thất bại ở các nước, đang được nhận thức đúng hơn, củng cố lại và tìm được hướng đi đúng đắn để có cơ sở khẳng định rằng, theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội. Sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển và là xu thế lớn, toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế ngày càng phát triển. Đó là những điểm nổi bật của thời đại cần tranh thủ để phát triển đất nước nhanh và bền vững.
“Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam''. Ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng chỉ có mục tiêu là giải phóng dân tộc, giành độc lập thống nhất hoàn toàn, xây dựng chủ nghĩa xã hội mang lại cuộc sống tự do, sung sướng hạnh phúc cho nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: ngoài lợi ích của giai cấp, dân tộc và nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác.
Để hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang đó, Đảng phải thật sự là đội tiên phong lãnh đạo, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, thường xuyên tự đổi mới và chỉnh đốn để xứng đáng là người lãnh đạo và người đầy tớ thật trung thành của nhân dân như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Toàn Đảng và mỗi cán bộ đảng viên phải nâng cao trình độ trí tuệ, tư tưởng và lý luận. ''Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đê do thực tiễn cách mạng đặt ra''9. Đảng coi trọng xây dựng, phát triển Cương lĩnh, đường lối và đường lối, chủ trương của Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tiễn của đất nước và lợi ích chính đáng của nhân dân, xuất phát từ sự vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan, khắc phục biểu hiện chủ quan, duy ý chí. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh: ''Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: Sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự tha hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên''10.
Từ bài học của quá trình cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng hiện nay tập trung vào bổ sung, phát triển Cương lĩnh, làm sáng tỏ hơn những vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, lý luận về Đảng cầm quyền, Nhà nước pháp quyền, về văn hoá và con người, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại và về thời đại. Đảng chăm lo xây dựng Đảng về tổ chức, tăng cường kỷ luật Đảng, học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Những bài học lớn trong Cương lĩnh và được Đại hội XI của Đảng (l.2011) thông qua, là những tổng kết có ý nghĩa sâu sắc về lý luận và thực tiễn, không chỉ khẳng định những vấn đề mang tính quy luật của cách mạng Việt Nam trong những chặng đuờng đã qua mà còn tiếp tục được nhận thức và phát triển để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước Việt Nam.
_______________
1. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 8, tr.494.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 21, tr.942.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.65.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tập 49, tr. 590-591.
5. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, tr.261-262.
6. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, tr.270.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI, đã dẫn, tr.65.
8. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, tr.293.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI, đã dẫn, tr.66.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI, đã dẫn, tr.66.
Đường dẫn bài viết: https://congthuong.vn/nhung-bai-hoc-lon-trong-cuong-linh-xay-dung-dat-nuoc-thoi-ky-qua-do-len-cnxhbo-sung-phat-trien-nam-2011-236876.html
In bài viếtBản quyền thuộc về "Báo Công Thương Điện Tử", chỉ được dẫn nguồn khi có thỏa thuận bằng văn bản.