Điều lệ Đảng (do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng thông qua)

Đảng lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, là đội tiền phong có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân...

Đảng lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, là đội tiền phong có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân. Đảng gồm những người giác ngộ tiên tiến, gương mẫu, dũng cảm và hy sinh nhất trong giai cấp công nhân, trong nông dân lao động, trí thức cách mạng và các tầng lớp nhân dân lao động khác, tự nguyện đứng trong hàng ngũ Đảng mà phấn đấu.

Điều lệ Đảng (do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng thông qua)

Cương lĩnh chung

Đảng lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, là đội tiền phong có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân. Đảng gồm những người giác ngộ tiên tiến, gương mẫu, dũng cảm và hy sinh nhất trong giai cấp công nhân, trong nông dân lao động, trí thức cách mạng và các tầng lớp nhân dân lao động khác, tự nguyện đứng trong hàng ngũ Đảng mà phấn đấu. Đảng đại biểu quyền lợi của giai cấp công nhân, đồng thời đại biểu quyền lợi của nhân dân lao động và quyền lợi của dân tộc. Mục đích của Đảng là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam.

Đảng lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Đảng rất coi trọng việc giáo dục những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin trong Đảng, trong nhân dân một cách rộng rãi và thường xuyên, coi đó là điểm mấu chốt đầu tiên trong công tác xây dựng Đảng và là một trong những điều kiện quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Đảng áp dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách đúng đắn và sáng tạo, chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa kinh nghiệm và của chủ nghĩa giáo điều. Đảng bảo vệ những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, chống mọi luận điệu của chủ nghĩa xét lại.

Để thực hiện mục đích và cương lĩnh của mình, trong 30 nǎm qua, Đảng Lao động Việt Nam đã ra sức phát huy truyền thống yêu nước của giai cấp công nhân và của dân tộc kết hợp với tinh thần quốc tế vô sản, ra sức phát huy truyền thống đấu tranh anh dũng và đoàn kết thống nhất của Đảng, củng cố và xây dựng Đảng thành một đảng Mác - Lênin vững mạnh. Nhờ đó, nǎm 1945 Đảng đã lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tiếp đó, Đảng đã lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng, cuối cùng đã giành được thắng lợi. Miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng khỏi ách đế quốc và đã xoá bỏ vĩnh viễn chế độ phong kiến, thực hiện người cày có ruộng.

Hiện nay đất nước Việt Nam còn tạm chia làm hai miền: miền Bắc đang tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam trở thành một thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ. Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam là tǎng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết giữ vững hoà bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tǎng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hoà bình ở Đông - Nam á và thế giới.

Để thực hiện nhiệm vụ của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đảng phải lãnh đạo công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ để xây dựng với tốc độ cao một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết hợp chặt chẽ công nghiệp với nông nghiệp. Song song với việc cải tạo và phát triển kinh tế, Đảng phải đẩy mạnh cuộc cách mạng về tư tưởng, vǎn hoá và kỹ thuật, không ngừng cải thiện đời sống và nâng cao trình độ mọi mặt của nhân dân. Đảng phải tǎng cường Nhà nước dân chủ nhân dân, củng cố quốc phòng và trị an, luôn luôn đề cao cảnh giác cách mạng. Đảng phải thúc đẩy sự phát triển về kinh tế và vǎn hoá của các dân tộc thiểu số, thực hiện các dân tộc bình đẳng hoàn toàn và thật sự. Đảng phải không ngừng củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất trên cơ sở liên minh công nông, tǎng cường đoàn kết các giai cấp, các dân tộc, các tôn giáo, các đảng phái, các nhân sĩ yêu nước và tán thành chủ nghĩa xã hội, huy động mọi lực lượng nhân dân ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất Tổ quốc.

Để thực hiện nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, Đảng chủ trương kiên trì đấu tranh chống chính sách chia cắt đất nước, nô dịch dân tộc, đàn áp nhân dân và gây chiến tranh của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc, phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng. Để hoàn thành nhiệm vụ đó, nhân dân miền Nam phải ra sức xây dựng khối công nông binh liên hợp và thực hiện một Mặt trận rộng rãi trên cơ sở liên minh công nông, đoàn kết các giai cấp, các dân tộc, các tôn giáo, các đảng phái yêu nước và tất cả những người có khuynh hướng chống đế quốc Mỹ và bọn tay sai. Trên cơ sở đó, phải ra sức tiến hành mọi biện pháp đấu tranh thích hợp để thực hiện thống nhất đất nước và đưa cách mạng tiến lên.

Cách mạng ở hai miền tuy thuộc hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau nhưng liên hệ mật thiết với nhau và ảnh hưởng lẫn nhau. Cách mạng ở miền Bắc có tác dụng quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất Tổ quốc. Cách mạng ở miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.

Đảng lao động Việt Nam nhận định cách mạng Việt Nam là một bộ phận tích cực của phong trào quốc tế đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc và hoà bình thế giới; nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một thành viên của phe xã hội chủ nghĩa hùng mạnh do Liên Xô vĩ đại đứng đầu. Đảng không ngừng góp phần củng cố và tǎng cường sự đoàn kết thống nhất giữa các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới, củng cố và tǎng cường quan hệ hữu nghị và sự hợp tác anh em giữa các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Đảng có nhiệm vụ lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam sát cánh với các dân tộc bị áp bức đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, sát cánh với giai cấp công nhân và nhân dân các nước đấu tranh cho hoà bình lâu dài trên toàn thế giới.

Đảng Lao động Việt Nam đi đường lối quần chúng trong mọi hoạt động của mình. Vì mục đích của Đảng không có gì khác là phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và của quần chúng nhân dân và vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân do Đảng lãnh đạo, cho nên Đảng và mỗi đảng viên phải quan tâm đến đời sống của quần chúng, phải học hỏi quần chúng, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, hoà mình với quần chúng, tin và dựa vào quần chúng, không thể cô độc, tách rời khỏi quần chúng. Đảng phải mau lẹ và thường xuyên thu thập những nguyện vọng, ý kiến và kinh nghiệm của quần chúng để đề ra chủ trương, chính sách đúng đắn và phát động quần chúng ra sức thực hiện. Bởi vậy, một mặt Đảng phải chống theo đuôi quần chúng, mặt khác phải tích cực chống quan liêu, mệnh lệnh, bao biện làm thay là những biểu hiện xa rời quần chúng, nhất là trong hoàn cảnh Đảng lãnh đạo chính quyền.

Đảng Lao động Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ và có kỷ luật rất nghiêm minh. Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cǎn bản của Đảng. Nội dung của nó là tập trung trên cơ sở dân chủ và dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung. Mục đích của nó một mặt là phát huy và nâng cao tính tích cực cách mạng, tính sáng tạo của đông đảo đảng viên và các tổ chức của Đảng, mặt khác là bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động và gìn giữ kỷ luật của Đảng. Đảng phải luôn luôn nắm vững lãnh đạo tập thể là nguyên tắc lãnh đạo cao nhất của Đảng, đồng thời kết hợp với phân công phụ trách. Đảng chống mọi hiện tượng phân tán, cục bộ, địa phương chủ nghĩa, tự do vô kỷ luật cũng như chống mọi hiện tượng tập trung quan liêu, sự vụ, gia trưởng, độc đoán, coi thường tập thể, coi thường cấp dưới.

Đảng Lao động Việt Nam lấy tự phê bình và phê bình làm quy luật phát triển của Đảng. Đảng luôn luôn khuyến khích và mở rộng tự phê bình và phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên, và cấm ngặt những hành động trấn áp phê bình. Đảng đấu tranh không điều hoà chống mọi biểu hiện khuynh hữu hoặc khuynh "tả", chống mọi biểu hiện của những tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, phong kiến và tư tưởng không vô sản khác. Đảng yêu cầu mỗi đảng viên phải xác định nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa, đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Đảng khuyến khích và hoan nghênh việc quần chúng nhân dân phê bình công việc, cán bộ, đảng viên của Đảng và thành khẩn tiếp thụ sự phê bình đúng đắn của quần chúng.

Đảng rất coi trọng việc tǎng cường đoàn kết nhất trí trong nội bộ Đảng vì đó là sinh mệnh của Đảng. Đảng kiên quyết chống lại mọi hiện tượng chia rẽ, bè phái trong Đảng. Mỗi đảng viên phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như "giữ gìn con ngươi của mắt". Sự đoàn kết nhất trí đó phải dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối chính sách của Đảng và chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở đấu tranh nội bộ về tư tưởng một cách nghiêm chỉnh. Tự phê bình và phê bình thành khẩn, thẳng thắn và đúng mức là một bảo đảm cho sự đoàn kết nhất trí đó.

Đảng Lao động Việt Nam nhận rõ sứ mạng của mình hết sức nặng nề nhưng rất vẻ vang. Trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân và của dân tộc, Đảng luôn luôn vượt mọi khó khǎn gian khổ, phát huy mọi thuận lợi, quyết tâm làm tròn nhiệm vụ đối với giai cấp và dân tộc, cho nên được nhân dân toàn quốc hết sức yêu mến và tin tưởng. Nhưng mỗi đảng viên không được kiêu ngạo, tự mãn, trái lại phải hết sức khiêm tốn, phải trau dồi đạo đức cách mạng và ra sức học tập chính trị, vǎn hoá, kỹ thuật và nghiệp vụ để

nâng cao trình độ mọi mặt của mình và tǎng cường sự lãnh đạo của Đảng. Tất cả các đảng viên hãy hǎng hái, dũng cảm, gương mẫu thi hành cương lĩnh, nghị quyết của Đảng, đoàn kết nhân dân, ra sức phấn đấu để thực hiện mục đích cao quý của Đảng.

Chương I

Đảng viên

Điều 1. Tất cả những công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, có lao động, không bóc lột, thừa nhận Cương lĩnh và Điều lệ của Đảng, nguyện hoạt động trong một tổ chức cơ sở của Đảng, tích cực phấn đấu để thực hiện Cương lĩnh, Điều lệ của Đảng, phục tùng kỷ luật của Đảng và đóng đảng phí theo quy định, đều có thể được công nhận làm đảng viên.

Điều 2. Đảng viên có các nhiệm vụ như sau:

1. Tích cực phấn đấu để thực hiện mọi nghị quyết và chỉ thị của Đảng, tham gia sinh hoạt Đảng đều đặn, luôn luôn tìm cách hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ Đảng giao cho.

2. Giữ gìn và củng cố sự đoàn kết thống nhất của Đảng.

3. Phục tùng nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng. Gương mẫu chấp hành pháp luật của Nhà nước và kỷ luật của các đoàn thể cách mạng của quần chúng mà mình tham gia.

4. Ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối chính sách của Đảng, học tập vǎn hoá, kỹ thuật và nghiệp vụ; không ngừng nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng và nǎng lực công tác của mình.

5. Hết lòng hết sức phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân. Đặt lợi ích của Đảng và lợi ích của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân.

6. Luôn luôn thắt chặt quan hệ với quần chúng, học tập quần chúng, tìm hiểu, lắng nghe nguyện vọng và ý kiến của quần chúng để phản ánh cho Đảng và kịp thời giải quyết một cách thích đáng. Ra sức tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối chính sách của Đảng trong quần chúng, tổ chức quần chúng thực hiện các chủ trương, chính sách và nghị quyết của Đảng; phát triển ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng.

7. Gương mẫu trong lao động sản xuất, trong công tác, trong việc chấp hành chính sách của Đảng và Chính phủ, trong việc bảo vệ tài sản của Nhà nước và của tập thể; thực hành tiết kiệm, tích cực đấu tranh chống lãng phí, tham ô.

8. Thực hành tự phê bình và phê bình; kiên quyết đấu tranh với mọi tư tưởng và hành động ở trong Đảng và ngoài Đảng có hại đến lợi ích chung của Đảng, của cách mạng.

9. Tuyệt đối trung thành và thật thà với Đảng, không giấu giếm, xuyên tạc sự thật và cũng không dung túng cho ai giấu giếm, xuyên tạc sự thật với Đảng.

10. Giữ gìn bí mật của Đảng, của Nhà nước và luôn luôn cảnh giác với âm mưu phá hoại của kẻ địch.

Tất cả các đảng viên chính thức và đảng viên dự bị đều phải thực hiện những nhiệm vụ nói trên. Ai không thực hiện hoặc làm trái lại thì tổ chức của Đảng cần phê bình giáo dục hoặc thi hành kỷ luật.

Điều 3. Đảng viên chính thức có những quyền như sau:

1. Thảo luận một cách tự do và nghiêm chỉnh các vấn đề về đường lối, chính sách và công tác của Đảng trong các cuộc hội nghị của Đảng.

2. Biểu quyết công việc của Đảng; tuyển cử và ứng cử vào các cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng.

3. Trong hội nghị của Đảng, được phê bình, chất vấn về công tác của cán bộ, đảng viên và tổ chức của Đảng.

4. Đối với các nghị quyết của Đảng, phải chấp hành vô điều kiện, nhưng nếu có chỗ không đồng ý thì vẫn có thể đề đạt ý kiến của mình lên cơ quan lãnh đạo của Đảng cho đến Đại hội toàn quốc.

5. Đối với những vấn đề gì xét thấy cần, đều có thể báo cáo, đề đạt ý kiến hoặc khiếu nại lên các cơ quan lãnh đạo của Đảng.

6. Khi tổ chức của Đảng thảo luận để quyết định kỷ luật đối với mình hoặc nhận xét có ra nghị quyết về hoạt động hoặc đạo đức của mình thì được yêu cầu tổ chức của Đảng triệu tập mình đến để trình bày ý kiến.

Các đảng viên dự bị được hưởng các quyền trên đây trừ quyền biểu quyết và quyền tuyển cử và ứng cử vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng.

Điều 4. Việc kết nạp người vào Đảng phải theo đúng các thủ tục sau đây:

1. Người xin vào Đảng phải tự mình yêu cầu với tổ chức Đảng và phải báo cáo rõ lý lịch của mình cho chi bộ xét.

2. Phải được hai đảng viên chính thức có ít nhất một nǎm tuổi đảng và đã cùng công tác một nǎm trở lên giới thiệu. Nếu là đoàn viên Đoàn Thanh niên Lao động và được Ban Chấp hành của Đoàn ở đơn vị cơ sở (xí nghiệp, xã, cơ quan, trường học, v.v.) giới thiệu thì chỉ cần một đảng viên chính thức có đủ các điều kiện kể trên giới thiệu.

Ở những nơi có chi đoàn thanh niên lao động, thì người thanh niên từ 18 đến 26 tuổi phải là đoàn viên mới được kết nạp vào Đảng.

Đảng viên giới thiệu người vào Đảng phải báo cáo với Đảng về lý lịch, phẩm chất người mình giới thiệu và chịu trách nhiệm trước Đảng về những lời giới thiệu của mình.

3. Phải được hội nghị chi bộ quyết định kết nạp vào Đảng và được cấp uỷ cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở hoặc đảng uỷ cơ sở ở những tổ chức cơ sở có lập liên chi chuẩn y. Đối với một số tổ chức cơ sở tuy không thành lập liên chi, nhưng nếu được Ban Chấp hành Trung ương hoặc khu uỷ khu tự trị, tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc uỷ nhiệm thì đảng uỷ cơ sở cũng được quyền chuẩn y việc kết nạp đảng viên. Trước khi quyết định kết nạp đảng viên, chi bộ phải xem xét kỹ lý lịch và phẩm chất của người xin vào Đảng để bảo đảm đúng là phần tử tiên tiến trong quần chúng, có đủ tiêu chuẩn vào Đảng; phải nói rõ Cương lĩnh, Điều lệ Đảng cho người xin vào Đảng hiểu.

Chi bộ phải xét từng người một để quyết định việc kết nạp.

4. Người được kết nạp vào Đảng phải trải qua một thời kỳ dự bị.

Mấy thủ tục đặc biệt:

- Ở những nơi chưa có tổ chức cơ sở của Đảng, cơ quan lãnh đạo cấp trên của Đảng có thể trực tiếp kết nạp đảng viên, nhưng vẫn phải theo đúng thủ tục: người muốn vào Đảng tự yêu cầu, có hai đảng viên chính thức có ít nhất một nǎm tuổi Đảng giới thiệu và do cấp uỷ có trách nhiệm thẩm tra lại kỹ trước khi kết nạp.

- Đối với các đảng viên các đảng phái khác sẽ do Ban Chấp hành Trung ương tuỳ hoàn cảnh mà quyết định chủ trương có kết nạp họ vào Đảng hay là không. Trường hợp nên kết nạp thì Ban Chấp hành Trung ương sẽ quy định các thủ tục riêng.

Điều 5. Về thời kỳ dự bị:

1. Thời kỳ dự bị quy định như sau: công nhân 9 tháng; các thành phần khác một nǎm. Thời kỳ dự bị tính từ ngày chi bộ tuyên bố kết nạp vào Đảng.

2. Trong thời kỳ dự bị, chi bộ cần giáo dục cho người đảng viên dự bị những điều tối thiểu cần thiết về chủ nghĩa cộng sản, về đường lối chính sách và nguyên tắc tổ chức của Đảng và dìu dắt, giúp đỡ đảng viên đó tiến bộ.

Điều 6. Khi hết thời kỳ dự bị, người đảng viên dự bị phải được xét để chuyển thành đảng viên chính thức. Việc xét này phải do hội nghị chi bộ làm từng người một như khi kết nạp.

Nếu vì một lẽ gì mà thấy chưa thể chuyển thành đảng viên chính thức được thì chi bộ có thể quyết định kéo dài thời kỳ dự bị thêm không quá một nǎm nữa. Nếu xét thấy không đủ tư cách đảng viên thì đưa ra khỏi Đảng.

Các nghị quyết của chi bộ về việc chuyển thành đảng viên chính thức, kéo dài thời kỳ dự bị phải được cấp uỷ cấp trên trực tiếp của chi bộ chuẩn y; việc đưa ra khỏi Đảng phải được cấp uỷ có thẩm quyền chuẩn y việc kết nạp đảng viên chuẩn y.

Tuổi đảng của đảng viên bắt đầu tính từ ngày được chi bộ công nhận làm đảng viên chính thức.

Điều 7. Đảng viên chuyển từ nơi này sang nơi khác phải được cấp uỷ Đảng giới thiệu đúng thủ tục để tham gia tổ chức Đảng nơi mình đến. Thủ tục giới thiệu sẽ theo một quy định cụ thể của Ban Chấp hành Trung ương.

Điều 8. Nếu đảng viên xin ra Đảng thì hội nghị chi bộ xét, quyết định xoá tên trong danh sách đảng viên và báo cáo lên cấp trên.

Điều 9. Đảng viên nào không có lý do chính đáng mà bỏ sinh hoạt Đảng hoặc không đóng đảng phí trong ba tháng liền thì sẽ coi như tự động ra khỏi Đảng. Hội nghị chi bộ sẽ quyết định xoá tên những đảng viên ấy trong danh sách đảng viên và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên trực tiếp của chi bộ chuẩn y.

Chương II

Nguyên tắc tổ chức và bộ máy tổ chức của đảng

Điều 10. Đảng Lao động Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Những điều cǎn bản của nguyên tắc ấy là:

1. Các cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng đều do tuyển cử mà lập ra. (Trường hợp đặc biệt khó khǎn không thể tổ chức tuyển cử được mới do cấp trên chỉ định).

2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc.

Cơ quan lãnh đạo cao nhất của địa phương là Đại hội đại biểu của địa phương.

Cơ quan lãnh đạo cao nhất của tổ chức cơ sở là Đại hội đại biểu hoặc Đại hội đảng viên của tổ chức cơ sở.

Các Đại hội đại biểu hoặc Đại hội đảng viên cử ra ban chấp hành các cấp. Các ban chấp hành chịu trách nhiệm và báo cáo công việc đã làm trước Đại hội đại biểu hoặc Đại hội đảng viên.

3. Tổ chức các cấp của Đảng phải thực hiện đúng nguyên tắc tập thể lãnh đạo kết hợp với phân công phụ trách.

4. Các công việc của Đảng đều phải tùy theo tính chất trọng yếu của từng vấn đề mà do những cơ quan của Đảng có đủ thẩm quyền giải quyết. Đối với những vấn đề về đường lối, chính sách và những vấn đề quan trọng về chính trị đối với toàn quốc, thì đều phải do các cơ quan lãnh đạo toàn quốc (Đại hội toàn quốc, Ban Chấp hành Trung ương) quyết định. Đối với những vấn đề có tính chất địa phương, thì do các tổ chức của Đảng có thẩm quyền ở các cấp địa phương giải quyết trong phạm vi không trái với các nghị quyết của cấp trên.

5. Các nghị quyết trong các hội nghị của Đảng đều lấy theo ý kiến đa số. Trước khi biểu quyết, các đảng viên đều được phát biểu hết ý kiến của mình.

6. Các nghị quyết của Đảng phải được chấp hành vô điều kiện. Cá nhân đảng viên phải phục tùng tổ chức Đảng; thiểu số phục tùng đa số; tổ chức cấp dưới phục tùng tổ chức cấp trên; các tổ chức Đảng trong toàn quốc phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.

Điều 11. Tổ chức của Đảng được lập ra theo đơn vị hành chính và đơn vị sản xuất hoặc công tác. Thành lập một đảng bộ mới hoặc bãi bỏ một đảng bộ sẵn có đều phải do cấp trên trực tiếp quyết định và cấp trên nữa chuẩn y.

Tổ chức của Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam là một bộ phận tổ chức của Đảng đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương. Ban Chấp hành Trung ương có thể thành lập Quân uỷ Trung ương (gồm một số uỷ viên Trung ương trong và ngoài quân đội) là cơ quan giúp Ban Chấp hành Trung ương lãnh đạo các mặt công tác của Đảng trong quân đội. Nhiệm vụ, quyền hạn của Quân uỷ Trung ương và cách tổ chức các cấp của Đảng trong quân đội sẽ do Ban Chấp hành Trung ương quy định cụ thể.

Tổng cục chính trị của Quân đội nhân dân Việt Nam đảm nhiệm công tác tư tưởng và công tác tổ chức của Đảng trong quân đội dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương và của Quân uỷ Trung ương trong phạm vi được Ban Chấp hành Trung ương uỷ quyền.

Các cấp uỷ Đảng trong quân đội có nhiệm vụ giữ mối liên hệ chặt chẽ với các cấp uỷ địa phương theo một quy định của Ban Chấp hành Trung ương.

Trường hợp đặc biệt và hạn chế, được Ban Chấp hành Trung ương ra quyết nghị thì mới được lập tổ chức khác của Đảng theo hệ thống ngành dọc.

Ở những khu vực quan trọng về kinh tế, chính trị v.v. Ban Chấp hành Trung ương có thể lập ra những tổ chức đặc biệt của Đảng. Ban Chấp hành Trung ương quy định quyền hạn và nhiệm vụ của những tổ chức đặc biệt này.

Điều 12. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng tổ chức như sau:

- Trong toàn quốc là Đại hội đại biểu toàn quốc; giữa hai kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc là Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

- Ở khu tự trị, tỉnh và thành phố trực thuộc là Đại hội đại biểu khu tự trị, tỉnh, thành phố trực thuộc; giữa hai kỳ Đại hội đại biểu là Ban Chấp hành khu tự trị, tỉnh, thành phố trực thuộc (gọi tắt là khu uỷ khu tự trị, tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc).

- Ở huyện, quận, thị xã, thành phố khác, khu phố (thuộc thành phố trực thuộc) là Đại hội đại biểu huyện, quận, thị xã, thành phố, khu phố (thuộc thành phố trực thuộc); giữa hai kỳ Đại hội đại biểu là các Ban Chấp hành huyện, quận, thị xã, thành phố, khu phố (thuộc thành phố trực thuộc) gọi tắt là huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ, thành uỷ, đảng uỷ khu phố (thuộc thành phố trực thuộc).

- Ở đơn vị cơ sở (xí nghiệp, xã, khu phố, thị trấn, cơ quan, bệnh viện, trường học, đơn vị đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam và các đơn vị cơ sở khác) là Đại hội đại biểu hoặc Đại hội đảng viên của đơn vị cơ sở; giữa hai kỳ Đại hội là Ban chấp hành của đơn vị cơ sở.

Điều 13. Khi tổ chức bầu cử trong Đảng, phải bảo đảm việc lựa chọn được chính xác, đồng thời phải bảo đảm đầy đủ tính chất dân chủ. Danh sách ứng cử phải được người bầu cử thảo luận; người bầu cử có quyền bầu hay là không bầu đối với mỗi người ứng cử, không một cơ quan hay là một đảng viên nào được gò ép hoặc bắt buộc.

Việc bầu cử các cơ quan lãnh đạo của Đảng phải theo cách bỏ phiếu kín. ở đơn vị cơ sở, trong trường hợp không thể dùng cách bỏ phiếu thì có thể bầu cử bằng cách giơ tay biểu quyết, nhưng phải biểu quyết từng người ứng cử một.

Điều 14. Tất cả các đại biểu đi dự Đại hội đại biểu các cấp đều phải do bầu cử từ dưới lên. Đối với những Đảng bộ vì hoàn cảnh đặc biệt khó khǎn không thể tổ chức bầu cử được thì Ban Chấp hành Trung ương sẽ chỉ định đại biểu các đảng bộ đó đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc. Danh sách các đại biểu đi dự Đại hội đại biểu cuối cùng phải được Đại hội đại biểu thẩm tra và quyết định.

Phải có quá 2/3 số đại biểu chính thức được triệu tập đến tham dự, thay mặt cho quá 2/3 số đảng viên và quá 2/3 số đảng bộ trực thuộc thì Đại hội đại biểu mới có giá trị.

Điều 15. Giữa hai kỳ Đại hội đại biểu, khi cần quyết định những vấn đề quan trọng hoặc bổ sung một số uỷ viên ban chấp hành, thì các cấp uỷ có thể triệu tập Hội nghị đại biểu (Hội nghị đại biểu toàn quốc, hội nghị đại biểu khu tự trị, tỉnh, thành phố trực thuộc, huyện, quận, thị xã, thành phố, khu phố thuộc thành phố trực thuộc). Hội nghị đại biểu gồm các uỷ viên trong cấp uỷ đứng ra triệu tập và các đại biểu do cấp uỷ cấp dưới cử lên. Thành phần, số lượng đại biểu của Hội nghị đại biểu và cách thức bầu do cấp uỷ đứng ra triệu tập quyết định dựa theo một nghị quyết chung của Ban Chấp hành Trung ương.

Nghị quyết của Hội nghị đại biểu phải do cấp uỷ triệu tập thông qua. Những uỷ viên được bầu cử bổ sung vào các cấp uỷ địa phương phải được cấp uỷ cấp trên trực tiếp chuẩn y.

Điều 16. Ban chấp hành các cấp từ huyện trở lên gồm một số uỷ viên chính thức và một số uỷ viên dự khuyết. Ban chấp hành của tổ chức cơ sở (Đảng uỷ hoặc chi uỷ xí nghiệp, xã, cơ quan, trường học, v.v.), nếu xét thấy cần, cũng có thể có uỷ viên dự khuyết. Các uỷ viên dự khuyết được tham dự hội nghị ban chấp hành nhưng không có quyền biểu quyết.

Khi uỷ viên chính thức các ban chấp hành các cấp thiếu thì lấy uỷ viên dự khuyết lên thay, theo thứ tự số phiếu đã được bầu ở Đại hội đại biểu hoặc Đại hội đảng viên. Nếu hết uỷ viên dự khuyết mà còn thiếu nữa thì do Hội nghị đại biểu bầu cử bổ sung hoặc do cấp trên chỉ định.

Ban chấp hành cấp dưới phải được cấp uỷ cấp trên trực tiếp chuẩn y.

Ban chấp hành cấp trên, trong trường hợp thật cần thiết, có thể điều động hoặc chỉ định một số uỷ viên của ban chấp hành cấp dưới. Nhưng số uỷ viên được điều động hoặc chỉ định không được quá 1/3 số uỷ viên do Đại hội cấp dưới đã cử ra.

Điều 17. Cơ quan lãnh đạo cấp trên của Đảng và cán bộ lãnh đạo cấp trên trong khi tiến hành công tác phải thường xuyên lắng nghe ý kiến của tổ chức cấp dưới và đảng viên, tiếp thụ sáng kiến và kinh nghiệm của họ; phải khuyến khích tổ chức cấp dưới và đảng viên phê bình và kiểm tra công tác của mình.

Cơ quan lãnh đạo cấp dưới và cán bộ cấp dưới của Đảng trong khi tiến hành công tác phải chú trọng giữ gìn nguyên tắc lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng; phải theo đúng đường lối chính sách của Đảng và nghị quyết của cấp trên; gặp các vấn đề thuộc thẩm quyền tổ chức cấp trên quyết định thì phải kịp thời báo cáo và xin chỉ thị. Đồng thời phải hết sức phát huy tính tích cực và tính sáng tạo để giải quyết các vấn đề thuộc trách nhiệm của mình.

Cán bộ, đảng viên và các tổ chức của Đảng phải nắm vững nguyên tắc: bộ phận phải phục tùng toàn bộ; việc nhỏ trong phạm vi hẹp phải phục tùng việc lớn trong phạm vi rộng; tránh bản vị, cục bộ. Giữa các địa phương và các ngành với nhau cần phát huy tinh thần hợp tác và giúp đỡ nhau trong công tác.

Điều 18. Cán bộ và tổ chức các cấp của Đảng không được tự ý ra chỉ thị, nghị quyết hoặc tuyên truyền ý kiến riêng của mình về những vấn đề chính sách thuộc phạm vi quyền hạn của cấp trên, nhưng vẫn có quyền thảo luận trong hội nghị của Đảng để đề đạt ý kiến lên.

Báo chí của tổ chức các cấp của Đảng phải tuyên truyền chính sách và nghị quyết của Trung ương Đảng, của tổ chức cấp trên và tổ chức cấp mình.

Trong các cuộc hội nghị quần chúng và trên các báo chí công khai, cán bộ, đảng viên khi phát biểu ý kiến đều phải theo đúng đường lối, chính sách và nghị quyết của Đảng.

Điều 19. Ban chấp hành các cấp của Đảng, tùy theo sự cần thiết, được lập ra một số cơ quan giúp việc. Thành phần, quyền hạn, trách nhiệm và cách làm việc của các cơ quan này do cấp uỷ lập ra quyết định, dựa theo một quy định chung của Ban Chấp hành Trung ương.

Gặp những việc đặc biệt, các cấp uỷ có thể lập ra những ban đặc biệt, xong việc rồi thì giải tán.

Chương III

Tổ chức trung ương của Đảng

Điều 20. Đại hội đại biểu toàn quốc do Ban Chấp hành Trung ương triệu tập, thường lệ 4 nǎm một lần. Gặp tình hình đặc biệt, Ban Chấp hành Trung ương có thể triệu tập sớm hơn hoặc hoãn lại một thời gian; trong trường hợp phải hoãn lại thì Ban Chấp hành Trung ương phải thông tri rõ lý do cho các cấp bộ Đảng biết.

Nếu Ban Chấp hành Trung ương xét thấy cần, hoặc nếu có quá nửa số đại biểu đã dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần trước, hoặc quá nửa số cấp uỷ trực thuộc yêu cầu, Ban Chấp hành Trung ương phải triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc bất thường.

Số đại biểu chính thức và số đại biểu dự khuyết dự Đại hội đại biểu toàn quốc và cách thức ứng cử và bầu cử đều do Ban Chấp hành Trung ương cǎn cứ vào tình hình chính trị chung, vào số lượng đảng viên và sự quan trọng của mỗi Đảng bộ mà quyết định.

Trước khi họp Đại hội đại biểu toàn quốc, Ban Chấp hành Trung ương phải nêu các vấn đề sẽ bàn ở Đại hội cho các cấp bộ Đảng thảo luận trước.

Điều 21. Nhiệm vụ của Đại hội đại biểu toàn quốc là: xét và chuẩn y báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương; quyết định hoặc sửa chữa Cương lĩnh, Điều lệ Đảng; định đường lối, chính sách lớn về các vấn đề cơ bản của tình hình trong từng thời kỳ; cử Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Điều 22. Nhiệm kỳ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng là 4 nǎm.

Số uỷ viên chính thức và số uỷ viên dự khuyết của Ban Chấp hành Trung ương do Đại hội đại biểu toàn quốc quyết định.

Điều 23. Nhiệm vụ của Ban Chấp hành Trung ương là: lãnh đạo toàn bộ công tác của Đảng trong thời gian giữa hai kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc; chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và các nghị quyết khác của Đại hội đại biểu toàn quốc; thay mặt Đảng liên lạc với các chính đảng trong nước và các đảng anh em trên thế giới; thành lập các đảng đoàn trong các cơ quan của bộ máy Nhà nước và của các đoàn thể nhân dân có tính chất toàn quốc và lãnh đạo các đảng đoàn đó hoạt động; quản lý và phân phối cán bộ của Đảng; định đảng phí, quản lý và phân phối tài chính của Đảng.

Ban Chấp hành Trung ương thường lệ 6 tháng họp một lần và cứ 6 tháng một lần báo cáo tình hình chung và công việc đã làm cho cấp dưới.

Điều 24. Ban Chấp hành Trung ương họp hội nghị toàn thể cử ra Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban kiểm tra Trung ương, đồng thời cử Chủ tịch và Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương. Số uỷ viên của Bộ Chính trị (ngoài số uỷ viên chính thức, có thể có một số uỷ viên dự khuyết), Ban Bí thư, Uỷ ban kiểm tra Trung ương do Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương quyết định.

Bộ Chính trị thay mặt Ban Chấp hành Trung ương lãnh đạo công tác của Đảng giữa hai kỳ Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương.

Ban Bí thư giải quyết công việc hàng ngày và kiểm tra đôn đốc việc thực hiện các nghị quyết của Đảng dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương và của Bộ Chính trị.

Ngoài các cơ quan kể trên, Ban Chấp hành Trung ương có thể cử ra một số uỷ viên trung ương thành lập Trung ương cục phụ trách chỉ đạo công tác Đảng ở những đảng bộ đặc biệt trọng yếu. Trung ương cục đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương.

Chương IV

Tổ chức của Đảng ở khu tự trị, tỉnh và thành phố trực thuộc

Điều 25. Đại hội đại biểu khu tự trị, tỉnh, thành phố trực thuộc do khu uỷ khu tự trị, tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc triệu tập, thường lệ hai nǎm một lần. Gặp tình hình đặc biệt, khu uỷ khu tự trị, tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc có thể triệu tập sớm hơn hoặc hoãn lại một thời gian, nhưng phải được Ban Chấp hành Trung ương đồng ý và phải thông tri rõ lý do cho các đảng bộ cấp dưới biết.

Nếu khu uỷ khu tự trị, tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc xét thấy cần; hoặc nếu có quá nửa số đại biểu đã dự Đại hội đại biểu lần trước hoặc quá nửa số cấp uỷ trực thuộc yêu cầu mà được Ban Chấp hành Trung ương đồng ý thì khu uỷ khu tự trị, tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc triệu tập Đại hội đại biểu bất thường.

Số đại biểu chính thức và số đại biểu dự khuyết dự Đại hội đại biểu khu tự trị, tỉnh, thành phố trực thuộc và cách thức ứng cử và bầu cử do khu uỷ khu tự trị, tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc quyết định, dựa theo một nghị quyết chung của Ban Chấp hành Trung ương.

Điều 26. Nhiệm vụ của Đại hội đại biểu toàn khu tự trị, tỉnh, thành phố trực thuộc là: xét và chuẩn y báo cáo của khu uỷ khu tự trị, tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc; thảo luận và quyết định các chủ trương công tác thuộc phạm vi địa phương, thảo luận các vấn đề do Ban Chấp hành Trung ương đề ra nếu có; cử khu uỷ khu tự trị, tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc và cử đại biểu đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc nếu có.

Điều 27. Nhiệm kỳ của khu uỷ khu tự trị, tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc là hai nǎm. Số uỷ viên chính thức và số uỷ viên dự khuyết của khu uỷ khu tự trị, tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc do Đại hội đại biểu ấn định, dựa theo một nghị quyết chung của Ban Chấp hành Trung ương.

Hội nghị toàn thể khu uỷ khu tự trị, tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc do ban thường vụ triệu tập, thường lệ ba tháng một lần.

Điều 28. Nhiệm vụ của khu uỷ khu tự trị, tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc là lãnh đạo toàn bộ công tác của Đảng trong khu tự trị, tỉnh, thành phố trực thuộc giữa hai kỳ Đại hội đại biểu; chấp hành nghị quyết của Đại hội đại biểu và các chỉ thị, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương; thành lập các đảng đoàn trong các cơ quan của bộ máy Nhà nước và đoàn thể nhân dân trong địa phương và lãnh đạo các đảng đoàn đó hoạt động; cǎn cứ vào chế độ do Ban Chấp hành Trung ương quy định mà quản lý và phân phối cán bộ, quản lý và phân phối tài chính của Đảng.

Khu uỷ khu tự trị, tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc có nhiệm vụ báo cáo công tác của mình lên Ban Chấp hành Trung ương theo đúng kỳ hạn và cứ ba tháng một lần báo cáo tình hình chung và công việc đã làm cho cấp dưới.

Điều 29. Hội nghị toàn thể khu uỷ khu tự trị, tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc cử ra ban thường vụ, uỷ ban kiểm tra, đồng thời cử ra bí thư và một số phó bí thư. Số uỷ viên trong ban thường vụ, uỷ ban kiểm tra và số phó bí thư do Hội nghị toàn thể khu uỷ khu tự trị, tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc quyết định, dựa theo một nghị quyết chung của Ban Chấp hành Trung ương.

Bí thư Ban Chấp hành khu tự trị, tỉnh, thành phố trực thuộc phải có ít nhất 5 nǎm tuổi đảng và phải được Ban Chấp hành Trung ương chuẩn y.

Ban thường vụ là cơ quan thay mặt khu uỷ khu tự trị, tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc lãnh đạo hết thảy mọi công tác của Đảng giữa hai kỳ hội nghị toàn thể Ban Chấp hành.

Bí thư và phó bí thư giải quyết công việc hàng ngày dưới sự lãnh đạo của ban thường vụ.

Điều 30. Trong trường hợp khu tự trị chia ra làm nhiều tỉnh thì các đảng bộ tỉnh trong khu tự trị chịu sự lãnh đạo trực tiếp của khu uỷ khu tự trị theo một quy định cụ thể của Ban Chấp hành Trung ương.

Chương V

Tổ chức của Đảng ở huyện, quận, thị xã, thành phố, khu phố

(thuộc thành phố trực thuộc)

Điều 31. Đại hội đại biểu huyện, quận, thị xã, thành phố, khu phố (thuộc thành phố trực thuộc) do huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ, thành uỷ, đảng uỷ khu phố (thuộc thành phố trực thuộc) triệu tập thường lệ mỗi nǎm một lần. Gặp tình hình đặc biệt, huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ, thành uỷ, đảng uỷ khu phố (thuộc thành phố trực thuộc) có thể triệu tập sớm hơn hoặc hoãn lại một thời gian, nhưng phải được khu uỷ khu tự trị, tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc đồng ý và phải thông tri rõ lý do cho các tổ chức cơ sở biết.

Số đại biểu chính thức và số đại biểu dự khuyết dự Đại hội đại biểu huyện, quận, thị xã, thành phố, khu phố (thuộc thành phố trực thuộc) và cách thức ứng cử và bầu cử do huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ, thành uỷ, đảng uỷ khu phố (thuộc thành phố trực thuộc) quyết định dựa theo một nghị quyết chung của Ban Chấp hành Trung ương và sự hướng dẫn của khu uỷ khu tự trị, tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc.

Điều 32. Nhiệm vụ của Đại hội đại biểu huyện, quận, thị xã, thành phố, khu phố (thuộc thành phố trực thuộc) là: xét và chuẩn y báo cáo của huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ, thành uỷ, đảng uỷ khu phố (thuộc thành phố trực thuộc); thảo luận các chủ trương công tác thuộc phạm vi địa phương và các vấn đề do cấp trên đề ra nếu có; cử huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ, thành uỷ, đảng uỷ khu phố (thuộc thành phố trực thuộc) và cử đại biểu đi dự Đại hội đại biểu khu tự trị, tỉnh, thành phố trực thuộc nếu có.

Điều 33. Nhiệm kỳ của huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ, thành uỷ, đảng uỷ khu phố (thuộc thành phố trực thuộc) là một nǎm. Số uỷ viên chính thức và số uỷ viên dự khuyết của huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ, thành uỷ, đảng uỷ khu phố (thuộc thành phố trực thuộc) do Đại hội đại biểu ấn định dựa theo một nghị quyết chung của Ban Chấp hành Trung ương và sự hướng dẫn của khu uỷ khu tự trị, tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc.

Hội nghị toàn thể huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ, thành uỷ, đảng uỷ khu phố (thuộc thành phố trực thuộc) do ban thường vụ triệu tập thường lệ một tháng rưỡi một lần.

Điều 34. Nhiệm vụ của huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ, thành uỷ, đảng uỷ khu phố (thuộc thành phố trực thuộc) là: lãnh đạo toàn bộ công tác của Đảng trong huyện, quận, thị xã, thành phố, khu phố (thuộc thành phố trực thuộc) giữa hai kỳ Đại hội đại biểu; chấp hành nghị quyết của Đại hội đại biểu và các chỉ thị nghị quyết của cấp trên; thành lập các đảng đoàn trong các cơ quan của bộ máy Nhà nước và đoàn thể nhân dân trong địa phương và lãnh đạo các đảng đoàn đó hoạt động; cǎn cứ vào chế độ do Ban Chấp hành Trung ương quy định mà quản lý và phân phối cán bộ, quản lý và phân phối tài chính của Đảng. Huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ, thành uỷ, đảng uỷ khu phố (thuộc thành phố trực thuộc) có nhiệm vụ báo cáo công tác của mình làm lên cấp trên theo đúng kỳ hạn và, cứ ba tháng một lần, phải báo cáo tình hình chung và công việc đã làm cho các tổ chức cơ sở của Đảng.

Điều 35. Hội nghị toàn thể huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ, thành uỷ, đảng uỷ khu phố (thuộc thành phố trực thuộc) cử ra ban thường vụ, uỷ ban kiểm tra, bí thư và một hoặc hai phó bí thư. Số uỷ viên trong ban thường vụ, uỷ ban kiểm tra và số phó bí thư do hội nghị toàn thể huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ, thành uỷ, đảng uỷ khu phố (thuộc thành phố trực thuộc) quyết định dựa theo một nghị quyết chung của Ban Chấp hành Trung ương và sự hướng dẫn của khu uỷ khu tự trị, tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc.

Bí thư huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ, thành uỷ, đảng uỷ khu phố (thuộc thành phố trực thuộc) phải có ít nhất ba nǎm tuổi Đảng và phải được cấp uỷ cấp trên trực tiếp chuẩn y.

Ban thường vụ là cơ quan thay mặt huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ, thành uỷ, đảng uỷ khu phố (thuộc thành phố trực thuộc) lãnh đạo hết thảy mọi công tác của Đảng giữa hai kỳ hội nghị toàn thể Ban Chấp hành.

Bí thư và phó bí thư giải quyết công việc hàng ngày dưới sự lãnh đạo của Ban Thường vụ.

Chương VI

Tổ chức cơ sở của đảng

Điều 36. Tổ chức cơ sở là nền tảng của Đảng, nối liền Đảng và các cơ quan lãnh đạo của Đảng với quần chúng công nhân, nông dân, trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác.

Trong mỗi đơn vị cơ sở như xí nghiệp (nhà máy, hầm mỏ, công trường, nông trường quốc doanh, đơn vị kinh doanh thương nghiệp, v.v.), xã, khu phố, thị trấn, cơ quan, bệnh viện, trường học, đơn vị đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam và các đơn vị cơ sở khác, nếu có từ ba đảng viên chính thức trở lên thì thành lập một tổ chức cơ sở của Đảng. Nếu không có đủ ba đảng viên chính thức thì thành lập một tiểu tổ Đảng do cấp uỷ thành lập ra trực tiếp phụ trách hoặc tạm ghép vào một tổ chức cơ sở gần đó mà sinh hoạt.

Điều 37. Hình thức tổ chức của tổ chức cơ sở của Đảng cǎn cứ vào yêu cầu của công tác lãnh đạo và số lượng đảng viên mà quy định như sau:

a) Tổ chức cơ sở có dưới 50 đảng viên thì, sau khi được cấp uỷ cấp trên trực tiếp quyết định, sẽ thành lập một chi bộ và họp Đại hội đảng viên để cử ra ban chấp hành chi bộ (gọi tắt là chi uỷ).

Chi bộ có thể chia ra nhiều tiểu tổ.

b) Các tổ chức cơ sở có từ 50 đảng viên trở lên thì, sau khi được cấp uỷ cấp trên trực tiếp quyết định, đều có thể họp Đại hội đại biểu hoặc Đại hội đảng viên để cử ra ban chấp hành của tổ chức cơ sở Đảng (gọi tắt là đảng uỷ cơ sở: đảng uỷ xí nghiệp, xã, cơ quan, v.v.). Dưới đảng uỷ cơ sở thì cǎn cứ theo đơn vị sản xuất, đơn vị công tác hay là nơi ở mà thành lập một số chi bộ. Chi bộ họp Đại hội đảng viên cử ra ban chi uỷ. Đảng uỷ cơ sở có quyền chuẩn y nghị quyết của chi bộ về thi hành kỷ luật đảng viên (trừ kỷ luật khai trừ) và thông qua nghị quyết của chi bộ về kết nạp đảng viên.

Cước chú:

1. Trong trường hợp đặc biệt, sau khi được khu uỷ khu tự trị, tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc đồng ý, thì tổ chức cơ sở không có đủ 50 đảng viên cũng có thể được thành lập đảng uỷ cơ sở và chia ra làm nhiều chi bộ; ngược lại, tổ chức cơ sở đông quá 50 đảng viên nhưng xét thấy không cần thiết phải thành lập đảng uỷ cơ sở, thì có thể chỉ thành lập một chi bộ.

2. Ở những đơn vị cơ sở lớn, mà trong một bộ phận tổ chức của đơn vị ấy (như phân xưởng ở xí nghiệp, cục ở các Bộ, khoa ở các trường học, v.v.) có quá đông đảng viên, nếu được Ban Chấp hành Trung ương (hoặc một cấp uỷ do Ban Chấp hành Trung ương uỷ nhiệm) đồng ý và ra nghị quyết, thì đảng uỷ cơ sở có thể thành lập ở bộ phận tổ chức đó một liên chi; liên chi sẽ họp Đại hội đại biểu hay là Đại hội đảng viên để cử ra liên chi uỷ; liên chi uỷ làm việc dưới sự lãnh đạo của đảng uỷ cơ sở và là cấp uỷ trên trực tiếp của các chi bộ trong liên chi. Quyền hạn, nhiệm vụ cụ thể của liên chi uỷ, số lượng đảng viên và các điều kiện khác làm cǎn cứ để có thể thành lập liên chi, sẽ do Ban Chấp hành Trung ương quy định.

Điều 38. Đại hội đại biểu hay là Đại hội đảng viên của tổ chức cơ sở có chia làm nhiều chi bộ và của liên chi thường lệ 6 tháng họp một lần. Đại hội đại biểu hay là Đại hội đảng viên của tổ chức cơ sở có thành lập liên chi thường lệ họp một nǎm một lần. Chi bộ thường lệ họp một tháng một lần.

Điều 39. Các Đại hội đại biểu hay là Đại hội đảng viên ở tổ chức cơ sở xét và chuẩn y báo cáo của đảng uỷ cơ sở, của liên chi uỷ hay là của chi uỷ; thảo luận và quyết định các vấn đề về chủ trương công tác trong đơn vị mình; thảo luận các vấn đề do cấp trên đề ra nếu có; đến kỳ hạn, cử đảng uỷ cơ sở, cử liên chi uỷ hay là cử chi uỷ và cử đại biểu tham gia Đại hội đại biểu cấp trên nếu có.

Điều 40. Nhiệm kỳ của ban chấp hành của tổ chức cơ sở (đảng uỷ hoặc chi uỷ xí nghiệp, xã, cơ quan, trường học, v.v.) và của liên chi uỷ là một nǎm. Nhiệm kỳ của chi uỷ ở những tổ chức cơ sở có nhiều chi bộ là 6 tháng. Số uỷ viên do Đại hội đại biểu hay là Đại hội đảng viên quyết định dựa theo một quy định chung của Ban Chấp hành Trung ương và sự hướng dẫn của cấp trên.

Đảng uỷ cơ sở, chi uỷ cử bí thư và phó bí thư. Nếu cần thiết và được cấp uỷ cấp trên trực tiếp đồng ý thì đảng uỷ cơ sở có thể cử ban thường vụ.

Bí thư đảng uỷ cơ sở, bí thư liên chi uỷ phải có ít nhất hai nǎm tuổi đảng, bí thư đảng uỷ cơ sở, bí thư liên chi uỷ, bí thư chi bộ phải được cấp uỷ cấp trên trực tiếp chuẩn y.

Chi bộ không quá 9 đảng viên chính thức thì chỉ cử một bí thư, nếu cần thì thêm một phó bí thư.

Điều 41. Đảng uỷ cơ sở có nhiệm vụ thống nhất lãnh đạo các mặt công tác trong đơn vị cơ sở; chấp hành các nghị quyết của Đại hội đại biểu hay là Đại hội đảng viên của tổ chức cơ sở và các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên; lãnh đạo các chi bộ hoạt động; cǎn cứ vào chế độ do cấp trên quy định mà quản lý tài chính và quản lý đảng viên trong tổ chức cơ sở.

Điều 42. Nhiệm vụ của tổ chức cơ sở của Đảng là:

1. Thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, tuyên truyền tổ chức quần chúng thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

2. Phản ánh lên cấp trên yêu cầu, nguyện vọng của quần chúng, hết sức chǎm lo đến việc nâng cao mức sống vật chất và vǎn hoá của quần chúng.

3. Lãnh đạo quần chúng phát huy tính sáng tạo, tích cực tham gia sinh hoạt chính trị của Nhà nước, củng cố kỷ luật lao động, ra sức thi đua yêu nước, bảo đảm hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất và kế hoạch công tác.

4. Phân phối và kiểm tra công tác của các đảng viên, kết nạp đảng viên, thu đảng phí, thi hành kỷ luật đảng viên, tổ chức cho đảng viên học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập đường lối chính sách của Đảng, nâng cao trình độ tư tưởng, trình độ chính trị và nǎng lực công tác của đảng viên, tǎng cường đoàn kết và thống nhất trong Đảng.

5. Mở rộng phê bình, tự phê bình, phát huy ưu điểm, vạch trần khuyết điểm sai lầm trong công tác, đấu tranh chống tất cả những hiện tượng phạm pháp, trái kỷ luật, quan liêu, lãng phí, tham ô.

6. Thảo luận và tham gia ý kiến vào việc quyết định các vấn đề thuộc về đường lối chính sách chung của Đảng.

7. Bồi dưỡng chí khí phấn đấu; nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho đảng viên và quần chúng.

Điều 43. Tổ chức cơ sở của Đảng ở xí nghiệp, xã, thị trấn, khu phố, bệnh viện, trường học, đơn vị đại đội trong quân đội nhân dân, v.v. phải lãnh đạo và kiểm tra tổ chức chính quyền và tổ chức quần chúng trong đơn vị mình tích cực thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị của tổ chức Đảng và cơ quan Nhà nước cấp trên, đồng thời phải tích cực cải tiến công tác của đơn vị mình.

Vì điều kiện đặc biệt của công tác cơ quan, tổ chức cơ sở của Đảng ở cơ quan không thể lãnh đạo và kiểm tra công tác của cơ quan được, nhưng phải lãnh đạo tình hình tư tưởng và chính trị của đảng viên trong cơ quan, tǎng cường kỷ luật công tác, động viên, cải tiến công tác ở cơ quan, chống bệnh quan liêu. Khi thấy công tác cơ quan có khuyết điểm cần kịp thời phản ánh cho người phụ trách cơ quan và báo cáo lên tổ chức Đảng cấp trên.

Chương VII

Uỷ ban kiểm tra các cấp

Điều 44. Ban Chấp hành Trung ương, các Ban chấp hành khu tự trị, tỉnh, thành phố trực thuộc, huyện, quận, thị, thành phố và khu phố (thuộc thành phố trực thuộc) cử ra uỷ ban kiểm tra của cấp mình gồm một số uỷ viên trong ban chấp hành. Ngoài ra, có thể cử một số uỷ viên ngoài ban chấp hành. Danh sách uỷ ban kiểm tra cấp dưới phải được cấp uỷ cấp trên chuẩn y.

Ở tổ chức cơ sở, ban chấp hành sẽ cử một đồng chí trong ban chấp hành giúp cấp uỷ theo dõi vấn đề thi hành kỷ luật đảng viên.

Điều 45. Nhiệm vụ của uỷ ban kiểm tra các cấp là: kiểm tra những vụ đảng viên làm trái điều lệ, kỷ luật của Đảng, trái với đạo đức cách mạng và pháp luật của Nhà nước; xử lý thư tố cáo và khiếu nại của đảng viên; cǎn cứ vào quyền hạn quy định ở chương X mà quyết định kỷ luật, chuẩn y hoặc xoá bỏ kỷ luật đối với đảng viên; kiểm tra tài chính của Đảng.

Điều 46. Uỷ ban kiểm tra các cấp làm việc dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng.

Uỷ ban kiểm tra cấp trên có quyền kiểm tra công việc của uỷ ban kiểm tra cấp dưới và có quyền chuẩn y hay là thay đổi nghị quyết của uỷ ban kiểm tra cấp dưới và của các tổ chức cơ sở về các vụ kỷ luật đối với đảng viên.

Chương VIII

Tổ chức đảng đoàn

Điều 47. Ở những nơi cần thiết trong các cơ quan lãnh đạo của bộ máy Nhà nước và của các đoàn thể quần chúng, Đảng lập ra các đảng đoàn. Đảng đoàn cấp nào do cấp uỷ cấp ấy chỉ định.

Nhiệm vụ của đảng đoàn là thực hiện đường lối chính sách và các nghị quyết của Đảng, tǎng cường ảnh hưởng của Đảng, tǎng cường đoàn kết và mối liên hệ chặt chẽ giữa cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng trong tổ chức mình hoạt động và nghiên cứu để đề nghị cấp uỷ quyết định chủ trương công tác đối với tổ chức ấy.

Điều 48. Đảng đoàn có bí thư, nếu cần có thể có phó bí thư. Bí thư và phó bí thư đảng đoàn do cấp uỷ chỉ định.

Đảng đoàn phục tùng sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng cấp tương đương và tập thể chịu trách nhiệm trước cấp uỷ.

Do sự giới thiệu của các cấp uỷ, đảng đoàn cấp trên và đảng đoàn cấp dưới có thể liên lạc với nhau để trao đổi ý kiến và kinh nghiệm công tác.

Chương IX

Đảng đối với đoàn thanh niên lao động Việt Nam

Điều 49. Đảng Lao động Việt Nam coi Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam là cánh tay đắc lực và đội hậu bị của Đảng. Đoàn có nhiệm vụ góp phần tích cực vào việc tuyên truyền và thực hiện các chính sách của Đảng. Trong khi thực hiện các chính sách đó, tổ chức của Đoàn cần chú ý đề nghị ý kiến và kinh nghiệm của mình với tổ chức của Đảng.

Điều 50. Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Ban Chấp hành Trung ương Đoàn chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, không phải thông qua hình thức đảng đoàn. Tổ chức Đoàn thanh niên các cấp địa phương cũng chịu sự lãnh đạo trực tiếp của tổ chức Đảng cùng cấp, đồng thời chịu sự lãnh đạo của tổ chức Đoàn thanh niên cấp trên.

Điều 51. Tổ chức các cấp của Đảng có nhiệm vụ giúp đỡ tổ chức các cấp của Đoàn thanh niên trong công tác tư tưởng và công tác tổ chức: trong việc giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin cho đoàn viên, trong việc giữ gìn mối liên hệ chặt chẽ giữa Đoàn thanh niên và đông đảo quần chúng thanh niên, trong việc xây dựng và củng cố tổ chức của Đoàn và trong việc bồi dưỡng, chọn lọc, cất nhắc cốt cán lãnh đạo của Đoàn.

Điều 52. Sau khi đoàn viên thanh niên lao động được kết nạp vào Đảng và chuyển thành đảng viên chính thức, nếu không làm công tác lãnh đạo hoặc công tác chuyên môn trong tổ chức của Đoàn thì cần thôi ở tổ chức Đoàn thanh niên. Trường hợp cần thiết do tổ chức của Đoàn đề nghị và tổ chức tương đương của Đảng đồng ý thì có thể ở lại một thời gian.

Chương X

Kỷ luật trong đảng

Điều 53. Kỷ luật của Đảng là để giữ vững sự thống nhất ý chí và hành động của Đảng, tǎng cường sức chiến đấu của Đảng. Việc thi hành kỷ luật là để bảo đảm cho kỷ luật của Đảng được nghiêm minh, đồng thời cũng là để giáo dục đảng viên và tổ chức của Đảng đã phạm kỷ luật, giáo dục đảng viên, cán bộ khác và giáo dục quần chúng.

Điều 54. Tùy theo tình hình cụ thể, tùy theo mức độ và tính chất sai lầm của đảng viên và tổ chức của Đảng, các tổ chức của Đảng có thẩm quyền, khi thi hành kỷ luật, sẽ áp dụng những hình thức như sau:

Đối với cá nhân đảng viên: khiển trách, cảnh cáo, cách chức trong Đảng, lưu lại trong Đảng một thời hạn để giáo dục và xem xét, khai trừ ra khỏi Đảng.

Đối với tổ chức của Đảng: khiển trách, cảnh cáo.

Thời gian lưu một đảng viên lại trong Đảng để giáo dục và xem xét nhiều nhất không được quá một nǎm. Trong thời gian lưu lại trong Đảng, nếu thấy người đảng viên phạm kỷ luật đã thật sự sửa chữa sai lầm và đã tiến bộ thì khôi phục lại đảng tịch, tuổi đảng vẫn được giữ nguyên; trái lại, nếu xét thấy không đủ tư cách đảng viên thì khai trừ ra khỏi Đảng. Trong thời gian bị lưu lại trong Đảng để giáo dục và xem xét, đảng viên không được quyền biểu quyết và quyền tuyển cử và ứng cử vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng.

Điều 55. Về thẩm quyền thi hành kỷ luật:

1. Đối với cá nhân đảng viên:

- Đối với đảng viên thì do hội nghị chi bộ thảo luận rồi quyết định; nhưng nếu là thi hành kỷ luật bằng hình thức lưu lại trong Đảng để giáo dục và xem xét thì phải do cấp uỷ trên trực tiếp của chi bộ (đảng uỷ cơ sở hoặc liên chi uỷ) chuẩn y, hoặc do uỷ ban kiểm tra của huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ, v.v. chuẩn y (nếu chi bộ trực thuộc huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ, v.v.), nếu là khai trừ ra khỏi Đảng thì phải do uỷ ban kiểm tra của cấp uỷ cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở hoặc do đảng uỷ cơ sở ở những tổ chức cơ sở có thành lập liên chi chuẩn y.

- Đối với đảng viên là cán bộ do cấp uỷ cấp trên quản lý nhưng không phải là uỷ viên hoặc uỷ viên dự khuyết các ban chấp hành các cấp của Đảng, thì sẽ tùy theo phạm vi sai lầm (do Ban Chấp hành Trung ương sẽ quy định cụ thể) mà do chi bộ hoặc do uỷ ban kiểm tra của cấp uỷ phụ trách quản lý cán bộ đó thi hành kỷ luật. Trường hợp thuộc phạm vi kỷ luật của chi bộ thì chi bộ có quyền quyết định các hình thức khiển trách, cảnh cáo, còn các hình thức khác đều phải đề nghị với uỷ ban kiểm tra của cấp uỷ phụ trách quản lý cán bộ đó thi hành. Khi uỷ ban kiểm tra thi hành kỷ luật bằng hình thức cách chức trong Đảng, lưu lại trong Đảng để giáo dục và xem xét hoặc khai trừ ra khỏi Đảng đối với những cán bộ do cấp uỷ quản lý thì trước khi ra quyết nghị phải xin ý kiến của cấp uỷ.

- Đối với các uỷ viên và uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành các cấp (kể cả Ban Chấp hành Trung ương Đảng) việc thi hành kỷ luật bằng hình thức khiển trách, cảnh cáo thì do Hội nghị toàn thể ban chấp hành quyết định. Nhưng nếu bằng hình thức cách chức trong Đảng, lưu lại trong Đảng để giáo dục và xem xét, khai trừ ra khỏi Đảng thì phải do Đại hội đại biểu hoặc Đại hội đảng viên quyết định và giữa hai kỳ Đại hội thì do Hội nghị toàn thể ban chấp hành quyết định, với sự đồng ý ít nhất của 2/3 số uỷ viên chính thức, và phải được cấp uỷ cấp trên trực tiếp chuẩn y; đến kỳ Đại hội gần nhất, cấp uỷ phải đem ra báo cáo. Việc thi hành kỷ luật một chi uỷ viên phải do hội nghị chi bộ quyết định và cấp uỷ cấp trên trực tiếp của chi bộ chuẩn y; riêng đối với kỷ luật khai trừ thì phải do cấp uỷ cấp trên của tổ chức cơ sở hoặc đảng uỷ của tổ chức cơ sở có thành lập liên chi chuẩn y.

- Đối với uỷ viên hoặc uỷ viên dự khuyết của Ban Chấp hành các cấp của Đảng, nếu phạm kỷ luật thuộc phạm vi chi bộ thì chi bộ có quyền quyết định hình thức khiển trách, cảnh cáo và báo cáo lên cấp uỷ mà uỷ viên đó có chân chuẩn y.

2. Đối với tổ chức của Đảng: việc thi hành kỷ luật khiển trách, cảnh cáo một tổ chức của Đảng phải do cơ quan lãnh đạo cấp trên của tổ chức đó quyết định.

Điều 56. Khi quyết định kỷ luật đối với đảng viên và tổ chức của Đảng, nhất là khi quyết định khai trừ đảng tịch là hình thức kỷ luật cao nhất của Đảng, các tổ chức có trách nhiệm của Đảng cần hết sức thận trọng; phải điều tra nghiên cứu kỹ càng và cǎn cứ vào những bằng chứng xác thực. Trừ trường hợp đặc biệt, còn thì cần triệu tập người phạm kỷ luật đến để trực tiếp trình bày ý kiến. Sau khi hình thức kỷ luật đã được chính thức quyết định hoặc chuẩn y, cần giải thích cho người bị kỷ luật hiểu rõ lý do; nếu người bị kỷ luật không đồng ý thì có thể yêu cầu xét lại và có thể khiếu nại lên cấp uỷ cấp trên, hoặc uỷ ban kiểm tra cấp trên, cho đến Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Các cơ quan của Đảng khi nhận được thư khiếu nại yêu cầu giải quyết hoặc đề nghị chuyển lên trên thì cần kịp thời giải quyết hoặc chuyển đi ngay, không được dìm bỏ. Khi nhận được thư khiếu nại, cơ quan có trách nhiệm phải báo cho người gửi thư biết và chậm nhất là trong vòng một tháng phải tổ chức điều tra nghiên cứu để xem xét.

Điều 57. Khi nghị quyết về khai trừ đảng tịch của một đảng viên chưa được cấp uỷ có thẩm quyền chuẩn y thì đảng viên đó vẫn được tham gia sinh hoạt Đảng. Việc tạm đình chỉ sinh hoạt Đảng chỉ được áp dụng trong trường hợp hết sức đặc biệt và phải được cấp uỷ có thẩm quyền chuẩn y kỷ luật khai trừ đồng ý.

Điều 58. Đối với các đảng viên phạm pháp luật của Nhà nước cần phải truy tố trước toà án thì tổ chức của Đảng có thẩm quyền sẽ thi hành kỷ luật của Đảng và tội trạng của họ sẽ do các cơ quan hành chính hoặc tư pháp xét xử về mặt chính quyền.

Chương XI

Tài chính của Đảng

Điều 59. Tài chính của Đảng gồm đảng phí do đảng viên đóng và các khoản thu nhập khác của Đảng do Ban Chấp hành Trung ương quy định.

Điều 60. Ban Chấp hành Trung ương sẽ ra nghị quyết về thể lệ thu đảng phí theo tỷ lệ thu nhập của từng loại đảng viên.

Điều 61. Tài chính của Đảng phải thống nhất. Ban Chấp hành Trung ương lập ra cơ quan tài chính của Đảng và quy định những nguyên tắc quản lý tài chính của Đảng một cách chặt chẽ. Các cấp bộ của Đảng phải đóng tài chính thu được lên cấp trên theo tỷ lệ do Ban Chấp hành Trung ương quy định và phải nghiêm chỉnh tuân theo những nguyên tắc và thể lệ tài chính của Đảng.

Chương XII

Sửa đổi điều lệ đảng

Điều 62. Chỉ có Đại hội đại biểu toàn quốc mới có quyền sửa đổi Điều lệ Đảng. Tất cả mọi đảng viên và tổ chức của Đảng đều phải nghiêm ngặt chấp hành Điều lệ Đảng và kịp thời đấu tranh với những hiện tượng vi phạm Điều lệ Đảng.

.

Bản quyền thuộc về "Báo Công Thương Điện Tử", chỉ được dẫn nguồn khi có thỏa thuận bằng văn bản.