Báo cáo tiếp thu giải trình của Đoàn Chủ tịch về ý kiến thảo luận của các đại biểu đối với các văn kiện Đại hội XI của Đảng

Báo cáo tiếp thu giải trình của Đoàn Chủ tịch về ý kiến thảo luận của các đại biểu đối với các văn kiện Đại hội XI của Đảng

(Do đồng chí Trương Tấn Sang, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X trình bày ngày 18 tháng 1 năm 2011)

Kính thưa Đoàn Chủ tịch,

Thưa các đồng chí,

Từ chiều ngày 12-1 đến hết ngày 14-1-2011, Đại hội thảo luận phần văn kiện. Đã có 1.402 lượt ý kiến phát biểu ở đoàn và 27 ý kiến ở hội trường. Không khí thảo luận sôi nổi, có trao đổi, tranh luận. Nội dung các ý kiến rất phong phú, thẳng thắn, tâm huyết.

Hầu hết các ý kiến đồng tình với các văn kiện trình Đại hội và cho rằng, nội dung các văn kiện trình Đại hội XI đề cập đến những vấn đề quan trọng của Đảng, của đất nước; các văn kiện đã được chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng, khoa học và nghiêm túc, có sự đổi mới cả về nội dung và cách thể hiện; đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng thực tế tình hình của đất nước và của Đảng, có tính tổng kết và khái quát cao; đã tiếp thu nghiêm túc, có chọn lọc ý kiến của đại hội đảng bộ các cấp, góp ý của các tổ chức và nhân dân; có nhiều điểm mới so với các văn kiện gửi đại hội đảng các cấp và công bố lấy ý kiến nhân dân, chất lượng được nâng lên; đã đạt được sự thống nhất cao trong những vấn đề lớn cả về lý luận và thực tiễn.

Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng, giữa các văn kiện chưa có sự trùng khớp về một số nội dung, chưa thể hiện rõ tinh thần đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, sâu sắc; một số chủ trương và giải pháp chưa cụ thể, sát thực và tính khả thi chưa cao; chưa tập trung giải quyết những vấn đề vướng mắc trong thực tiễn, những vấn đề bức xúc của xã hội, của nhân dân. Một số ý kiến cho rằng, cần xem lại một số nhận định, khái niệm và một số chi tiết cụ thể để bảo đảm tính chính xác, thống nhất giữa các báo cáo, cũng như giữa các phần trong mỗi báo cáo. Các ý kiến phát biểu tại Đại hội đã phân tích làm sáng tỏ, sâu sắc thêm và bổ sung nhiều nội dung quan trọng, cả trong quan điểm chung và trong từng lĩnh vực cụ thể.

Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho tiếp thu những ý kiến hợp lý, xác đáng để hoàn chỉnh các văn kiện Đại hội, đồng thời để chỉ đạo trong hoạt động thực tiễn sắp tới. Đối với một số vấn đề khó, còn có ý kiến khác nhau, xin cho ghi nhận để tiếp tục nghiên cứu kỹ hơn sau Đại hội XI. Những kiến nghị sửa đổi một số từ ngữ, sắp xếp lại câu chữ hoặc chữa một số lỗi văn bản, xin giao cho Bộ Chính trị khoá XI chỉ đạo sửa chữa, hoàn thiện trước khi công bố chính thức.

Dưới đây, Đoàn Chủ tịch xin trình bày rõ thêm một số vấn đề lớn, quan trọng trong các văn kiện để Đại hội xem xét, quyết định.

I- VỀ CHỦ ĐỀ ĐẠI HỘI XI

Hầu hết ý kiến nhất trí với chủ đề Đại hội, nhưng có ý kiến băn khoăn chủ đề của Đại hội XI căn bản giống chủ đề Đại hội X (chỉ khác nhau ở thành tố thứ tư).

Đoàn Chủ tịch xin có ý kiến như sau:

Chủ đề Đại hội là tư tưởng chỉ đạo định hướng hoạt động của Đảng, xác định nhiệm vụ trọng tâm trong mỗi thời kỳ nhất định. Chủ đề Đại hội (cũng là tiêu đề của Báo cáo chính trị) hiện nay gồm bốn thành tố, vừa kế thừa, vừa phát triển chủ đề của Đại hội X, vừa thể hiện tập trung, cô đọng nhất mục tiêu, nhiệm vụ, động lực của cách mạng nước ta trong những năm tới.

- Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là thành tố đầu tiên, có ý nghĩa hết sức quan trọng, đáp ứng yêu cầu cấp bách hiện nay. Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) đã khẳng định bài học “Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Đại hội X của Đảng xác định “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”. Thực hiện Nghị quyết Đại hội X, việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, chất lượng đội ngũ đảng viên đạt một số kết quả; chú trọng hơn việc xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng ở những vùng, lĩnh vực trọng yếu, có nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, không ít tổ chức đảng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu còn thấp; công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu. Trong những năm tới, cơ hội và thách thức đan xen nhau, công cuộc đổi mới đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết. Cần tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, quyết tâm tạo ra sự chuyển biến thật sự rõ rệt trên những vấn đề này nói riêng, công tác xây dựng Đảng nói chung.

- Tiếp tục phát huy sức mạnh toàn dân tộc. Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) tiếp tục khẳng định bài học kinh nghiệm lớn “sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” và bài học về đại đoàn kết. Đại hội X xác định “phát huy sức mạnh toàn dân tộc”. Thực hiện Nghị quyết Đại hội X, việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhưng chưa đầy đủ và vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém. Trong những năm tới đòi hỏi tiếp tục phát huy sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của mọi lĩnh vực hoạt động trong đất nước ta; giải phóng mọi tiềm năng, phát huy mọi nguồn lực, mọi thành phần kinh tế; phát huy sức mạnh của truyền thống lịch sử, văn hoá dân tộc và ý chí kiên cường của người Việt Nam.

- Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới. Đại hội X đã chỉ rõ yêu cầu “đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới” là đổi mới một cách mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thực tiễn; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động trong từng bộ phận của hệ thống chính trị; từ hoạt động của cấp trung ương đến hoạt động của địa phương và cơ sở. Công cuộc đổi mới 25 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đồng thời cũng đang đòi hỏi phải đổi mới toàn diện hơn nữa. Vì thế, trong 5 năm tới phải tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới.

- Tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại là thành tố chỉ rõ mục tiêu trực tiếp của Đại hội XI. Thực hiện Nghị quyết Đại hội X, nước ta đã ra khỏi trình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Các Đại hội VIII, IX, X và dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 nhất quán xác định mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Vì vậy, Đoàn Chủ tịch xin kiến nghị Đại hội cho khẳng định chủ đề của Đại hội XI là: “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

II- VỀ DỰ THẢO CƯƠNG LĨNH (BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN)

1. Về tên gọi của Cương lĩnh

Đa số ý kiến đồng ý tên gọi của Cương lĩnh như Dự thảo. Nhiều ý kiến đề nghị bổ sung thêm cụm từ “và bảo vệ” để tên của Cương lĩnh là: “Cương lĩnh xây dựng và bảo vệ đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.

Đoàn Chủ tịch xin có ý kiến như sau:

Tên gọi của Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) đã được Trung ương thảo luận tại Hội nghị Trung ương 10, 11, 12 và đến Hội nghị Trung ương 14 đã được biểu quyết với 59,49% ý kiến tán thành giữ tên gọi của Cương lĩnh năm 1991, chỉ thêm cụm từ “bổ sung, phát triển năm 2011.Đa số ý kiến của đại hội đảng các cấp, của đại biểu Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, cán bộ, đảng viên và nhân dân nhất trí với tên gọi này.

Ở thời điểm xây dựng và ban hành Cương lĩnh năm 1991, tình hình trong nước và quốc tế cũng đã đòi hỏi phải hết sức coi trọng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Tên của Cương lĩnh năm 1991, tuy không có từ “bảo vệ”, nhưng trong nội dung Cương lĩnh đã nêu đầy đủ các yêu cầu, phương hướng, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc với hàm nghĩa: xây dựng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, xây dựng Đảng và cả hệ thống chính trị, tạo ra sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Ở đây tuyệt nhiên không có ý mơ hồ, chủ quan, mất cảnh giác. Cương lĩnh năm 1991 đã khẳng định: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc vẫn là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ hữu cơ với nhau”; chỉ rõ một trong bảy phương hướng cơ bản “xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng. Đồng thời, có một mục riêng nói rõ nhiệm vụ của quốc phòng - an ninh: “Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn dân và của Nhà nước... Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng- an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội... Xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân... theo hướng cách mạng, chính quy, từng bước hiện đại, tinh nhuệ...”.

Trên thực tế, trong suốt thời gian qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn coi trọng thực hiện cả hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; không phải vì trong tên gọi của Cương lĩnh không có từ “bảo vệ” mà dẫn đến chủ quan, lơi lỏng, coi nhẹ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Hai mươi năm qua, quốc phòng - an ninh được giữ vững. Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XI cũng khẳng định những thành tựu quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc: quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững; thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân được củng cố; tiềm lực an ninh, quốc phòng được tăng cường...

Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) giữ tên gọi của Cương lĩnh năm 1991; những quan điểm cơ bản về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong Cương lĩnh năm 1991 được bổ sung, phát triển, làm rõ thêm để phù hợp với tình hình mới.

Nếu bổ sung thêm cụm từ “bảo vệ” thì sẽ làm nổi rõ cả “xây dựng” và “bảo vệ”, tránh gây hiểu lầm chỉ nói đến “xây dựng” mà không quan tâm đến “bảo vệ”. Tuy nhiên, cũng có thể dẫn đến một hiểu lầm khác là: Có phải tên gọi Cương lĩnh năm 1991 chỉ nói đến “xây dựng” là vừa qua mất cảnh giác, chưa nhận thức đúng tầm về nhiệm vụ “bảo vệ”, nay phải bổ sung? Hoặc suy diễn: Phải chăng đó là sửa về nhận thức, hay do tình hình mới đòi hỏi sắp tới phải tăng cường thêm về quốc phòng, an ninh? Đây là một vấn đề hết sức nhạy cảm, nhất là trong quan hệ đối ngoại, cần được cân nhắc kỹ.

Đoàn Chủ tịch xin đề nghị Đại hội cho biểu quyết để lựa chọn một trong hai phương án:

Phương án 1: Giữ tên gọi như Dự thảo: “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)”.

Phương án 2: Bổ sung cụm từ “và bảo vệ”: “Cương lĩnh xây dựng và bảo vệ đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)”.

2. Về đặc trưng kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng

Đa số ý kiến đồng tình thể hiện như trong Dự thảo: “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”. Một số ý kiến đề nghị thể hiện như Đại hội X: “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp”; hoặc: “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”.

Đoàn Chủ tịch xin có ý kiến như sau:

Trong quá trình chuẩn bị Đại hội XI, đặc trưng “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu” trong Cương lĩnh năm 1991 đã được Trung ương thảo luận nhiều lần, và mới đây Hội nghị Trung ương 14 đã biểu quyết với 55,06% ý kiến nhất trí giữ như Cương lĩnh năm 1991 nhằm nói rõ mục tiêu phải đạt được khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Thể hiện như Đại hội X tuy phù hợp với chính sách phát triển các thành phần kinh tế của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay, tránh được cách hiểu coi nhẹ đối với khu vực kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân, nhưng lại có phần trừu tượng, không rõ đến khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, quan hệ sản xuất phù hợp lúc đó là như thế nào.

Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho biểu quyết để lựa chọn một trong hai phương án:

Phương án 1: “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu” (như Dự thảo).

Phương án 2: “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại với quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” (như tinh thần Đại hội X, có bổ sung thêm từ “tiến bộ”).

Liên quan đến chế độ sở hữu, có ý kiến cho rằng, vấn đề sở hữu đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu quản lý, nhưng thực tế còn nhiều vướng mắc, chế độ công hữu đất đai chỉ còn với đất quốc phòng, an ninh. Có ý kiến đề nghị nói rõ trong Cương lĩnh về sở hữu đất đai. Đoàn Chủ tịch đề nghị, đây là một vấn đề cực kỳ hệ trọng không chỉ về kinh tế mà cả về chính trị, xã hội, đồng thời ý kiến còn rất khác nhau, chưa đủ cơ sở để kết luận, trong nhiệm kỳ tới cần tiếp tục nghiên cứu, tổng kết để sửa đổi Luật Đất đai, chưa nên nêu cụ thể trong Cương lĩnh về vấn đề này.

3. Về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Đa số ý kiến đồng tình như Dự thảo. Có ý kiến đề nghị thể hiện rõ hơn về quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa, nội hàm của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta. Có ý kiến cho rằng, vừa xác định các thành phần kinh tế bình đẳng, cùng phát triển lâu dài, vừa xác định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là mâu thuẫn.

Đoàn Chủ tịch xin có ý kiến như sau:

Vấn đề quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa, nội hàm của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta đã được các nhiệm kỳ đại hội, nhất là các khoá VIII, IX và X không ngừng bổ sung, phát triển, làm rõ dần. Đây là một quá trình vừa làm, vừa tìm tòi, đổi mới, hoàn thiện. Trong Báo cáo chính trị và Chiến lược trình Đại hội XI cũng đã từ tổng kết lý luận - thực tiễn, bổ sung làm rõ thêm vấn đề này. Trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) chỉ nêu những định hướng khái quát nhất. Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho giữ như Dự thảo.

Về chính sách chung đối với các thành phần kinh tế, các nhiệm kỳ đại hội từ Đại hội VI đã không ngừng đổi mới, đặc biệt là Đại hội X đã khẳng định rõ: “Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”. Những chủ trương đó đã được nhân dân đồng tình, hưởng ứng, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển kinh tế và cải thiện đời sống, giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Đó là một thành tựu to lớn của quá trình đổi mới. Vì vậy, Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho giữ nội dung này như Dự thảo.

Về vai trò của kinh tế nhà nước, từ Đại hội VIII, Đảng ta đã sử dụng khái niệm “kinh tế nhà nước” (không đồng nghĩa với khái niệm “doanh nghiệp nhà nước”), bao gồm: ngân sách nhà nước, các quỹ của Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước. Nội hàm “chủ đạo” qua nhiều năm đổi mới cũng có sự đổi mới khá cơ bản. Hội nghị Trung ương 3 khoá IX đã xác định: Kinh tế nhà nước có vai trò chủ đạo theo nghĩa: “có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước”; đồng thời cũng xác định doanh nghiệp nhà nước “giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Thực tế phát triển kinh tế những năm qua, nhất là trong điều kiện khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, càng cho thấy phải khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và vai trò quan trọng, làm nòng cốt của doanh nghiệp nhà nước, gắn với vai trò quản lý và điều tiết nền kinh tế của Nhà nước. Như vậy, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước không mâu thuẫn, hạn chế sự phát triển bình đẳng, lâu dài các thành phần kinh tế, mà chính là mở đường, thúc đẩy, tạo điều kiện, tạo động lực cho phát triển mạnh các thành phần kinh tế khác. Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho giữ cụm từ “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” như Dự thảo.

III- VỀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 2011 - 2020

Đoàn Chủ tịch xin báo cáo Đại hội nội dung tiếp thu và giải trình như sau:

1. Tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế

1.1. Về tình hình đất nước

Có ý kiến đề nghị làm rõ hơn bối cảnh, tình hình đất nước, nhất là phần dự báo để có cơ sở đề ra các mục tiêu chiến lược phù hợp hơn; cần đánh giá cụ thể từng vùng, từng ngành, từng lĩnh vực để làm cơ sở cho đầu tư sắp tới. Có ý kiến đề nghị nhấn mạnh thành tựu về các vấn đề xã hội. Có ý kiến đề nghị làm rõ hơn một số khuyết điểm, yếu kém về ổn định kinh tế vĩ mô, về đầu tư, nợ công, thiếu điện, chính sách đất đai, văn hoá, xã hội... Cũng có một số ý kiến đề nghị nhấn mạnh thêm một số nội dung trong phần nguyên nhân và bài học kinh nghiệm.

Đoàn Chủ tịch xin báo cáo Đại hội như sau:

Trong quá trình hơn hai năm xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã chỉ đạo tổng kết việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, trong đó đã làm rõ những thành tựu, những yếu kém, khuyết điểm chung của toàn bộ nền kinh tế và trong từng ngành, lĩnh vực, vùng; phân tích nguyên nhân và bài học kinh nghiệm... Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược đã phản ánh khá đầy đủ các nội dung cụ thể mà các đại biểu đã nêu ra. Dự thảo Chiến lược 2011 - 2020 chỉ trình bày khái quát và cô đọng nhất về những vấn đề chủ yếu.

Tiếp thu ý kiến của các đại biểu, Đoàn Chủ tịch xin đề nghị bổ sung, chỉnh sửa các nội dung sau: Cập nhật kết quả tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2001 - 2010 là 7,26% thay cho 7,2%; nhấn mạnh thành tích về xoá đói, giảm nghèo trong đánh giá thành tựu về văn hoá - xã hội; đề cập thêm yếu kém về đầu tư dàn trải, về chính sách đất đai chưa phù hợp, tình trạng thiếu điện còn nghiêm trọng khi đánh giá về các hạn chế, yếu kém; nhấn mạnh nguyên nhân hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập, thực thi pháp luật chưa nghiêm.

1.2. Về bối cảnh quốc tế

Một số ý kiến đề nghị bổ sung, nhấn mạnh các vấn đề như: Thời cơ nhiều hơn thách thức, cần tính toán thêm phần dự báo về tác động kinh tế và yếu tố quốc tế đến thực hiện chiến lược.

Đoàn Chủ tịch thấy rằng, trong bối cảnh quốc tế của thời kỳ chiến lược tới, cả thời cơ và thách thức đều lớn và đan xen nhau, có nhiều biến động phức tạp, cần thường xuyên theo dõi, dự báo để có chính sách phản ứng thích hợp nhằm tận dụng tốt thời cơ và đối phó có hiệu quả với những thách thức.

2. Quan điểm phát triển

Một số ý kiến đề nghị bổ sung thêm các quan điểm như ổn định chính trị, tăng cường quốc phòng, an ninh, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý nhà nước, phát triển kinh tế biển... Có ý kiến đề nghị làm rõ hơn một số nội dung cụ thể trong từng quan điểm, góp ý về cách diễn đạt, ghép quan điểm 4 với quan điểm 2...

Đoàn Chủ tịch xin báo cáo với Đại hội: Quan điểm phát triển là những tư tưởng chỉ đạo có tính bao trùm, xuyên suốt trong Chiến lược. Vấn đề ổn định chính trị, tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững trật tự, an toàn xã hội là rất quan trọng và đã được thể hiện rõ trong quan điểm 1: “Phải đặc biệt quan tâm giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững”. Tiếp thu ý kiến của các đại biểu, Đoàn Chủ tịch xin đề nghị thay cụm từ “quan tâm” bằng cụm từ “coi trọng” trong câu trên.

Về vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý nhà nước đã được thể hiện tại mục V của Dự thảo Chiến lược. Những nội dung khác đã được thể hiện hợp lý trong các mục III- Mục tiêu chiến lược và khâu đột phá và mục IV- Định hướng phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế.

3. Mục tiêu chiến lược và các khâu đột phá

3.1. Về mục tiêu chiến lược

Có ý kiến đề nghị làm rõ các tiêu chí của mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, xác định rõ nội dung của cụm từ “nước công nghiệp”. Có ý kiến đề nghị không nên ghi các chỉ tiêu định lượng vào mục tiêu của Nghị quyết Đại hội. Một số ý kiến cho rằng, nhiều chỉ tiêu cụ thể đề ra là cao quá, khó thực hiện trong điều kiện vừa phải phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, vừa phải nâng cao chất lượng tăng trưởng; ngược lại, cũng có một số ý kiến cho rằng, một số chỉ tiêu đề ra còn thấp, chưa tương xứng với mục tiêu tổng quát là “phấn đấu cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”; đưa chỉ tiêu tăng trưởng GDP bình quân lên mức 8,2%/năm hoặc GDP bình quân đầu người lên 5.000 USD, tỉ lệ che phủ rừng đạt 50% đến năm 2020...

Đoàn Chủ tịch xin báo cáo Đại hội như sau: Các tiêu chí để xác định cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại đã được thể hiện qua các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể và các định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực và vùng như nêu trong Dự thảo Chiến lược. Trong quá trình soạn thảo Chiến lược, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã chỉ đạo nghiên cứu, tính toán, cân nhắc kỹ để xác định các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội và môi trường, vừa thể hiện quyết tâm phấn đấu cao, vừa bảo đảm khả năng thực hiện. Đề nghị Đại hội cho giữ các mục tiêu, chỉ tiêu như trong Dự thảo Chiến lược.

Tiếp thu ý kiến góp ý của các đại biểu, xin đề nghị chuyển cụm từ “đồng thuận” xuống sau cụm từ “dân chủ, kỷ cương” trong mục tiêu về văn hoá, xã hội để bảo đảm tính thống nhất về cách thể hiện mục tiêu này với mục tiêu tổng quát.

3.2. Về các đột phá chiến lược

Đoàn Chủ tịch xin báo cáo với Đại hội các đột phá chiến lược đã qua nhiều lần thảo luận, ý kiến đóng góp của đại hội đảng bộ các cấp, ý kiến của nhân dân đa số đồng tình với việc lựa chọn ba khâu đột phá như trong Dự thảo. Tại Đại hội này, cũng có một số ý kiến đề nghị bổ sung thêm một số khâu đột phá như: phòng, chống tham nhũng, lãng phí; tập trung xây dựng nông thôn mới; tinh giản bộ máy nhà nước; chính sách về đất đai; bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường... Tuy nhiên, hầu hết ý kiến thảo luận đồng tình với việc lựa chọn ba khâu đột phá như nêu trong Dự thảo và phân tích, làm rõ thêm một số nội dung trọng tâm của ba khâu đột phá để bảo đảm tập trung nguồn lực thực hiện có hiệu quả. Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho giữ ba khâu đột phá như trong Dự thảo.

4. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế

Hầu hết ý kiến góp ý đồng tình với 12 định hướng phát triển đã nêu trong Dự thảo Chiến lược. Nhiều ý kiến phân tích, làm rõ thêm và đề nghị bổ sung một số nội dung cụ thể trong các định hướng phát triển.

Tiếp thu ý kiến của các đại biểu, Đoàn Chủ tịch xin báo cáo Đại hội một số nội dung được tiếp thu, chỉnh sửa như sau:

- Tại mục 1- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực:

Thay cụm từ “phân phối các lợi ích ngày càng công bằng” thành “phân phối lợi ích công bằng”.

Thêm cụm từ “của người sử dụng đất” vào sau cụm từ “bảo đảm hài hoà các lợi ích của Nhà nước”, đoạn nói về hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, chính sách về đất đai.

Thay cụm từ “tôn trọng bằng cụm từ “bảo đảm và viết lại thành câu: “Bảo đảm quyền tự do kinh doanh và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế”.

- Tại mục 2- Phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh:

Bổ sung cụm từ “năng lượng tái tạo vào sau cụm từ “năng lượng sạch và viết thành “chú trọng phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo và vật liệu mới đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu”.

Bổ sung cụm từ “áp dụng công nghệ mới sau cụm từ “chất lượng cao và viết thành “phát triển mạnh công nghiệp vật liệu xây dựng, nhất là vật liệu chất lượng cao, áp dụng công nghệ mới”.

- Tại mục 3- Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững:

Thay cụm từ “hải sản bằng cụm từ “thuỷ sản và viết thành: “Khai thác bền vững, có hiệu quả nguồn lợi thuỷ sản; phát triển đánh bắt xa bờ...”.

Chuyển nội dung về phát triển diêm nghiệp, ở mục 6- Phát triển hài hoà, bền vững các vùng, xây dựng đô thị và nông thôn mới, “quy hoạch và phát triển có hiệu quả nghề muối, bảo đảm nhu cầu của đất nước và đời sống diêm dân” lên cuối mục 3 để bảo đảm thể hiện đầy đủ tính toàn diện của các lĩnh vực phát triển nông nghiệp.

- Tại mục 7- Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hoá, xã hội hài hoà với phát triển kinh tế: Bổ sung cụm từ “giáo dục” vào sau cụm từ “chăm sóc” và viết thành “chăm sóc, giáo dục và bảo vệ quyền trẻ em”.

5. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm thực hiện thắng lợi Chiến lược

Tiếp thu ý kiến của các đại biểu, Đoàn Chủ tịch xin báo cáo Đại hội một số nội dung tiếp thu, chỉnh sửa như sau:

- Bổ sung câu: “Xây dựng mô hình chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn phù hợp” vào cuối đoạn về xây dựng nền hành chính nhà nước trong sạch, vững mạnh.

- Bổ sung cụm từ “quy định rõ và” và viết thành “Quy định rõ và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu” (ở đoạn nói về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức).

6. Tổ chức thực hiện Chiến lược

Một số ý kiến cho rằng, mặc dù chủ trương, đường lối đúng đắn nhưng tổ chức thực hiện đang là khâu yếu; do đó, cần có các giải pháp kiên quyết, mạnh mẽ, cụ thể, thiết thực và hiệu quả. Đoàn Chủ tịch nhất trí với các ý kiến này và đề nghị Đại hội giao cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện tốt yêu cầu này.

IV- VỀ BÁO CÁO CHÍNH TRỊ

1. Về đánh giá thực hiện Nghị quyết Đại hội X

Hầu hết các ý kiến nhất trí với đánh giá như trong Báo cáo. Có ý kiến đề nghị đánh giá rõ, cụ thể hơn thành tựu trong sắp xếp bộ máy của Đảng, Nhà nước. Có ý kiến đề nghị thay tiêu đề của điểm 6 thành: “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt những kết quả tích cực”.

Đoàn Chủ tịch xin báo cáo như sau:

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá X) về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, đã tiến hành sắp xếp theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu quả. Việc đánh giá chính xác thành tựu cũng như hạn chế, khuyết điểm cần phải có thời gian. Vì thế, trong phần đánh giá chỉ nêu những nét tổng quát và trong Báo cáo chính trị đã nêu: “Sớm tổng kết việc thực hiện sáp nhập một số bộ, ban, ngành trung ương để có chủ trương phù hợp”. Với phương châm “nhìn thẳng sự thật, nói đúng sự thật, nói rõ sự thật”, căn cứ vào thực tiễn công tác xây dựng Đảng, Báo cáo đã đánh giá: Trong 5 năm qua, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt được một số kết quả tích cực nhưng cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém. Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho giữ các nhận định trên như trong Báo cáo.

2. Về các “nguy cơ”

Một số ý kiến đề nghị trong mục dự báo tình hình cần tiếp tục nhấn mạnh “bốn nguy cơ” mà Đảng ta đã xác định từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII. Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm “một nguy cơ” là khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, miền ngày càng lớn, từ đó đề ra các giải pháp quyết liệt để khắc phục. Có ý kiến cho rằng, những yếu kém trong xây dựng Đảng là nguy cơ, chứ không phải là thách thức đối với Đảng ta.

Đoàn Chủ tịch xin báo cáo như sau:

Kế thừa cách diễn đạt của Đại hội X, căn cứ vào thực tế và dự báo tình hình những năm tới, Báo cáo chính trị đã xác định và nhấn mạnh cả hai khía cạnh về thách thức và nguy cơ, cụ thể là: “Nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” có những diễn biến phức tạp”. Về khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, miền ngày càng lớn, những yếu kém trong công tác xây dựng Đảng đã được đề cập trong các thách thức trên.

Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho giữ cách diễn đạt về các thách thức như trong Báo cáo chính trị.

3. Về chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế trong

5 năm 2011 - 2015

Đa số ý kiến đồng ý chỉ tiêu nêu trong Báo cáo chính trị, cho là phù hợp, có cơ sở khoa học và có tính khả thi. Một số ý kiến đề nghị nâng tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm 2011 - 2015 từ 7,0 - 7,5%/năm lên 7,5 - 8%/năm.

Đoàn Chủ tịch xin báo cáo như sau:

Trong phần dự báo đã nêu: kinh tế thế giới mặc dù có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, bất ổn; 5 năm tới là giai đoạn kinh tế nước ta sẽ phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng sau thời kỳ suy giảm; đồng thời 5 năm tới chúng ta thực hiện chủ trương chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế, bảo đảm phát triển bền vững. Chỉ tiêu tăng trưởng GDP trong 5 năm tới nêu trong Báo cáo là chỉ tiêu định hướng và được tính toán, cân nhắc kỹ về các yếu tố, cân đối các nguồn lực, vừa với tinh thần tích cực phấn đấu cao, vừa bảo đảm tính khả thi, vững chắc; vừa đáp ứng được mục tiêu tăng trưởng kinh tế, vừa phải bảo đảm thực hiện các mục tiêu về phát triển văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững; tạo điều kiện cho sự phát triển trong giai đoạn tiếp sau.

Đoàn Chủ tịch xin kiến nghị Đại hội cho giữ chỉ tiêu tăng trưởng GDP bình quân là 7,0 - 7,5%/năm như trong Báo cáo chính trị.

4. Về đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị

Đa số ý kiến nhất trí với những nội dung nêu trong Báo cáo chính trị, một số ý kiến đề xuất thực hiện việc “nhất thể hoá” trong hệ thống chính trị từ dưới lên. Ngược lại, có ý kiến đề nghị cần nghiên cứu, xem xét thận trọng việc “nhất thể hoá” chức danh bí thư cấp uỷ, đồng thời là chủ tịch uỷ ban nhân dân. Có ý kiến đề nghị bỏ chủ trương thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường.

Đoàn Chủ tịch xin báo cáo như sau:

Trong nhiệm kỳ Đại hội X, chúng ta đã chỉ đạo làm thí điểm một số vấn đề như “nhất thể hoá” chức danh bí thư cấp uỷ, đồng thời là chủ tịch uỷ ban nhân dân ở cấp xã và cấp huyện; không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường. Những thí điểm này mới được tiến hành. Cần có tổng kết, trên cơ sở đó mới có thể có quyết định phù hợp. Vì vậy, Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho giữ nội dung như trong Báo cáo chính trị: “Tổng kết việc thực hiện “nhất thể hoá” một số chức vụ lãnh đạo Đảng, Nhà nước để có chủ trương phù hợp”; “Tiếp tục thực hiện thí điểm chủ trương không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường”.

V- VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ BỔ SUNG, SỬA ĐỔI ĐIỀU LỆ ĐẢNG

Đoàn Chủ tịch xin báo cáo, làm rõ một số vấn đề sau đây:

1. Về quá trình chỉ đạo tổng kết thực hiện Điều lệ Đảng khoá X và kiến nghị những nội dung bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng

Sau khi có Quyết định số 248-QĐ/TW, ngày 21-7-2009 của Ban Chấp hành Trung ương về việc thành lập Tiểu ban Tổng kết việc thực hiện Điều lệ Đảng và bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng, Bộ Chính trị đã chỉ đạo Tiểu ban xây dựng kế hoạch, hướng dẫn nội dung và đề nghị các tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương kiểm tra việc thi hành Điều lệ Đảng từ cấp cơ sở trở lên và xây dựng báo cáo tổng kết, đề xuất những nội dung cần nghiên cứu để bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng.

Trên cơ sở báo cáo của 67 tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương và kết quả kiểm tra thi hành Điều lệ Đảng của Tiểu ban tại 20 tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương; Tiểu ban Điều lệ Đảng đã xây dựng báo cáo tổng kết, đề xuất những nội dung bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng trình Bộ Chính trị để Bộ Chính trị trình Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X. Có 23 nội dung được Hội nghị Trung ương 12 thảo luận, lựa chọn gửi lấy ý kiến đảng viên và đại biểu đại hội đảng bộ các cấp.

Tại Hội nghị Trung ương 14, sau khi nghe báo cáo tổng hợp ý kiến của đại biểu đảng bộ cấp huyện, cấp tỉnh và tương đương tham gia vào Báo cáo về một số vấn đề bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng và Dự thảo Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi), Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận và trình Đại hội những nội dung được đại biểu đại hội các đảng bộ trực thuộc Trung ương thống nhất cao; còn 8 vấn đề đã xin ý kiến nhưng Hội nghị Trung ương 14 thảo luận còn có ý kiến khác nhau nên Ban Chấp hành Trung ương đề nghị chưa bổ sung, sửa đổi trong Điều lệ Đảng lần này.

Như vậy, việc tổng kết thực hiện Điều lệ Đảng khoá X và những vấn đề kiến nghị bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng đã được triển khai một cách nghiêm túc, kỹ lưỡng, được tiếp thu, chắt lọc từ cơ sở qua đại hội đảng các cấp trên tinh thần ba quan điểm chỉ đạo đã được Hội nghị lần thứ 12, lần thứ 14, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X thống nhất cao.

2. Về giới thiệu người vào Đảng

Điều lệ Đảng hiện hành quy định “ở các cơ quan, doanh nghiệp nơi không có tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người vào Đảng phải là đoàn viên công đoàn, được ban chấp hành công đoàn cơ sở và một đảng viên chính thức giới thiệu”. Trong quá trình nghiên cứu bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng và qua thảo luận tại đại hội đảng các cấp, tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, có một số quan điểm được nêu lên, như: “Ở các cơ quan, doanh nghiệp nơi không có tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh mà có tổ chức công đoàn, người vào Đảng trong độ tuổi thanh niên là đoàn viên công đoàn, được ban chấp hành công đoàn cơ sở và một đảng viên chính thức giới thiệu” hoặc thực hiện như quy định của Điều lệ Đảng từ Đại hội Đảng lần thứ IX trở về trước: “người vào Đảng phải... được hai đảng viên chính thức giới thiệu. Nơi có tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người vào Đảng trong độ tuổi thanh niên phải là đoàn viên, được ban chấp hành đoàn cơ sở và một đảng viên chính thức giới thiệu”. Đảng đoàn Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đề nghị “nơi có tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và có tổ chức công đoàn, người vào Đảng trong độ tuổi thanh niên phải là đoàn viên, được ban chấp hành đoàn cơ sở và một đảng viên chính thức giới thiệu. Nếu ngoài tuổi thanh niên, phải là đoàn viên công đoàn, được ban chấp hành công đoàn và một đảng viên chính thức giới thiệu. Nơi chỉ có tổ chức công đoàn, người vào Đảng phải là đoàn viên công đoàn, được ban chấp hành công đoàn cơ sở và một đảng viên chính thức giới thiệu”.

Đoàn Chủ tịch thấy rằng việc giới thiệu người vào Đảng là việc hệ trọng, nhưng ý kiến còn rất khác nhau. Do đó, Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho giữ như Điều lệ Đảng hiện hành, trong hướng dẫn thi hành Điều lệ sẽ quy định theo hướng mở rộng độ tuổi người vào Đảng đối với người là đoàn viên công đoàn do ban chấp hành công đoàn cơ sở giới thiệu.

3. Về thẩm quyền kỷ luật đảng viên của cấp uỷ các cấp

Tại khoản 1, Điều 36 Điều lệ Đảng hiện hành quy định: “Chi bộ quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng viên trong chi bộ (kể cả cấp uỷ viên các cấp, đảng viên thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý) vi phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sinh hoạt đảng, thực hiện nhiệm vụ đảng viên (trừ nhiệm vụ do cấp trên giao)”. Nhưng tại khoản 2, khoản 3, Điều 36 chưa thể hiện nội dung giao cho cấp uỷ từ cấp huyện và tương đương trở lên thẩm quyền quyết định kỷ luật khiển trách, cảnh cáo đảng viên (kể cả cấp uỷ viên các cấp, đảng viên thuộc diện cấp uỷ cấp trên quản lý) vi phạm phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, sinh hoạt đảng thực hiện nhiệm vụ đảng viên (trừ nhiệm vụ do cấp trên giao).

Trên cơ sở ý kiến của đại hội đảng các cấp, của Ban Chấp hành Trung ương khoá X và ý kiến thảo luận của các đại biểu tại Đại hội, Đoàn Chủ tịch trình Đại hội hai phương án:

Phương án 1: Bổ sung nội dung trên vào khoản 2, khoản 3, Điều 36 của Điều lệ Đảng hiện hành cho thống nhất với khoản 1.

Phương án 2: Giữ như quy định hiện hành nhưng cần xem xét sửa các khoản 5, Điều 36[1], khoản 2, Điều 38[2] cho phù hợp.

4. Về thẩm quyền kỷ luật đảng viên của uỷ ban kiểm tra từ cấp huyện, quận và tương đương trở lên

- Tại khoản 4, Điều 36 Điều lệ Đảng hiện hành quy định: “Ủy ban kiểm tra từ cấp huyện, quận và tương đương trở lên quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên, nhưng không phải là cấp uỷ viên cùng cấp; quyết định khiển trách, cảnh cáo đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cùng cấp quản lý và cấp uỷ viên cấp dưới trực tiếp”. Trong thảo luận tại đại hội đảng các cấp và tại Đại hội XI của Đảng, có một số ý kiến đề nghị sửa đổi khoản này thành “Ủy ban kiểm tra từ cấp huyện, quận và tương đương trở lên quyết định các hình thức kỷ luật đảng viên, nhưng không phải là cấp uỷ viên cùng cấp và đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp uỷ cùng cấp quản lý”.

Do vấn đề này ý kiến còn rất khác nhau, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương cũng đề nghị giữ như Điều lệ Đảng hiện hành để góp phần tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng. Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho giữ như Điều lệ Đảng hiện hành về thẩm quyền kỷ luật đảng viên của uỷ ban kiểm tra cấp huyện, quận và tương đương trở lên.

5. Ngoài bốn vấn đề trên, các ý kiến khác phát biểu làm rõ thêm một số nội dung trong 15 vấn đề đã trình Đại hội. Đoàn Chủ tịch Đại hội đề nghị các đồng chí đại biểu phát huy tinh thần trách nhiệm, nghiên cứu kỹ các quan điểm, nội dung đã nêu trong Báo cáo về một số vấn đề bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng để thể hiện bằng phiếu chính kiến của mình vào 13 vấn đề như dự thảo phiếu biểu quyết.

VI- VỀ BÁO CÁO KIỂM ĐIỂM SỰ LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO CỦA BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG KHOÁ X

Đoàn Chủ tịch xin báo cáo giải trình, tiếp thu một số ý kiến góp ý của các đại biểu như sau:

1. Có ý kiến cho rằng, phần kiểm điểm của tập thể Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư nêu nhiều khuyết điểm, ít ưu điểm, khuyết điểm nêu quá nặng, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân; kiểm điểm của cá nhân các đồng chí Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương, Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư thì ưu điểm nhiều, khuyết điểm ít.

Về vấn đề này, Đoàn Chủ tịch xin báo cáo Đại hội như sau:

Tư tưởng chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá X là kiểm điểm trước Đại hội đầy đủ cả ưu điểm và khuyết điểm, cả của tập thể và cá nhân với tinh thần thẳng thắn, khách quan, trung thực nhất. Theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một Đảng sợ khuyết điểm, giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng yếu; khi có khuyết điểm, dũng cảm nhận khuyết điểm để sửa chữa sẽ làm cho Đảng mạnh thêm; Đảng mạnh thì sẽ củng cố và làm tăng thêm niềm tin của nhân dân với Đảng. Phần cuối của Báo cáo kiểm điểm đã nêu rõ: “Ban Chấp hành Trung ương khoá X tin tưởng chắc chắn rằng, những ưu điểm, kinh nghiệm trong nhiệm kỳ qua sẽ được Ban Chấp hành Trung ương khoá XI kế thừa, phát triển, đồng thời khắc phục được những khuyết điểm, yếu kém để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ban Chấp hành Trung ương, tiếp tục lãnh đạo đưa sự nghiệp đổi mới đất nước vững bước tiến lên trong những năm tới”.

Vì vậy, Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho thể hiện tư tưởng chỉ đạo xây dựng Báo cáo kiểm điểm của Ban Chấp hành Trung ương như đã trình Đại hội.

2. Có ý kiến cho rằng, Báo cáo kiểm điểm chưa phân định rõ trách nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương và của Bộ Chính trị; Báo cáo kiểm điểm là của Ban Chấp hành Trung ương nhưng phần kiểm điểm của Bộ Chính trị, Ban Bí thư chiếm tỉ lệ lớn trong Báo cáo; một số vấn đề nêu trong Báo cáo là khuyết điểm của Bộ Chính trị, không phải là khuyết điểm của Ban Chấp hành Trung ương.

Về vấn đề này, Đoàn Chủ tịch xin báo cáo Đại hội như sau:

Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư là các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở cấp Trung ương, thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan được quy định rõ trong Điều lệ Đảng (Điều 16, 17) và Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá X (Điều 1, 4, 5). Báo cáo đã bám sát các quy định của Điều lệ Đảng và Quy chế làm việc để kiểm điểm trách nhiệm, đánh giá ưu điểm, khuyết điểm của từng cơ quan. Bộ Chính trị, Ban Bí thư là các cơ quan do Ban Chấp hành Trung ương bầu, lập ra. Bộ Chính trị lãnh đạo và kiểm tra việc thực hiện nghị quyết Đại hội, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, quyết định những vấn đề về chủ trương, chính sách, tổ chức, cán bộ; quyết định triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp Ban Chấp hành Trung ương. Ban Bí thư lãnh đạo công việc hằng ngày của Đảng, chỉ đạo công tác xây dựng Đảng và công tác quần chúng, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng; chỉ đạo sự phối hợp hoạt động giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị; quyết định một số vấn đề về tổ chức, cán bộ và một số vấn đề khác theo sự phân công của Ban Chấp hành Trung ương. Vì vậy, trong các nhiệm kỳ Đại hội, trong Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương trình Đại hội, đều có phần kiểm điểm của Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng và Quy chế làm việc.

Về một số ý trong phần khuyết điểm của Ban Chấp hành Trung ương, như: một số vấn đề lớn, quan trọng, gây bức xúc xã hội đã được nêu trong văn kiện Đại hội X nhưng chưa được Ban Chấp hành Trung ương tập trung lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết có hiệu quả; trách nhiệm trong việc quy hoạch, đào tạo cán bộ cấp cao; chưa thảo luận kỹ khi thông qua một số chủ trương..., những vấn đề này trách nhiệm chính là của Bộ Chính trị, nhưng Ban Chấp hành Trung ương với thẩm quyền và trách nhiệm của mình theo quy định của Điều lệ Đảng và Quy chế làm việc cũng có phần trách nhiệm. Vì vậy, trong Báo cáo kiểm điểm, những khuyết điểm này được thể hiện cả ở phần của Ban Chấp hành Trung ương và cả ở phần của Bộ Chính trị, phù hợp trách nhiệm của từng cơ quan lãnh đạo.

3. Có ý kiến cho rằng, Ban Chấp hành Trung ương chưa đầu tư thoả đáng vào lãnh đạo kinh tế, lãnh đạo kinh tế nhà nước đạt kết quả thấp, chưa quan tâm đúng mức đến kinh tế tập thể; một số vấn đề nhiều năm chưa giải quyết được như vấn đề đất đai, phân hoá giàu nghèo trong kinh tế thị trường...

Về vấn đề này, Đoàn Chủ tịch xin báo cáo Đại hội như sau:

Với quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, Ban Chấp hành Trung ương đã tập trung vào việc triển khai, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện những vấn đề mới, quan trọng, có tính chiến lược trong đường lối phát triển kinh tế của Đại hội X, chọn đúng vấn đề, đề ra chủ trương, giải pháp để giải quyết những vấn đề đặt ra, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, như: Nghị quyết “Một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)”; Nghị quyết “Về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”; Nghị quyết “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”; Nghị quyết về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”. Các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương về lĩnh vực kinh tế chiếm một tỉ lệ lớn trong những nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành trong nhiệm kỳ. Khi cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu tác động xấu đến kinh tế nước ta, Ban Chấp hành Trung ương đã bổ sung chương trình làm việc, tổ chức Hội nghị Trung ương 8 để xem xét kế hoạch phát triển kinh tế đất nước năm 2008, điều chỉnh chỉ tiêu, giải pháp để khắc phục khó khăn, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, ngăn ngừa suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Ban Chấp hành Trung ương đã xem xét, cho ý kiến về chủ trương, định hướng triển khai một số dự án đầu tư lớn, quan trọng về kinh tế như các dự án xây dựng Nhà máy điện hạt nhân, Nhà máy thuỷ điện Lai Châu.

Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương đã góp phần quan trọng vào những kết quả tích cực đạt được trên lĩnh vực kinh tế của đất nước ta trong 5 năm qua. Tuy nhiên, đúng như góp ý của một số đại biểu, kết quả đạt được trên một số lĩnh vực còn hạn chế như việc nâng cao chất lượng, hiệu quả của kinh tế nhà nước, phát triển kinh tế tập thể, quản lý đất đai, khắc phục phân hoá giàu nghèo... Những hạn chế, khuyết điểm này đã được thể hiện trong Báo cáo kiểm điểm. Tiếp thu ý kiến góp ý của các đại biểu, đề nghị Đại hội giao cho Ban Chấp hành Trung ương khoá XI sắp tới cần lưu ý để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tạo chuyển biến rõ hơn đối với các lĩnh vực này.

4. Có ý kiến cho rằng, đánh giá về các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước như trong Báo cáo là nặng, chưa công bằng, cần nêu rõ những đóng góp của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, không nên phủ định sạch trơn. Ý kiến khác lại đề nghị cần nói rõ hơn những khuyết điểm trong việc ưu tiên đầu tư cho các tập đoàn, tổng công ty nhà nước nên dẫn đến nợ công lớn...

Về vấn đề này, Đoàn Chủ tịch xin báo cáo Đại hội như sau:

Cần khẳng định rằng, việc củng cố, kiện toàn các tổng công ty nhà nước và thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước là một chủ trương đúng đắn và thực hiện chủ trương này đã đạt được một số kết quả như đánh giá trong Báo cáo chính trị trình Đại hội. Trong Báo cáo chính trị và các văn kiện trình Đại hội XI đã khẳng định tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã và đang có sự đóng góp quan trọng trong nền kinh tế, tham gia giải quyết nhiều vấn đề xã hội, xoá đói, giảm nghèo và là công cụ quan trọng để nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế, nhất là trong thời kỳ khó khăn do tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu vừa qua. Khuyết điểm được nêu trong Báo cáo kiểm điểm là ở công tác quản lý hoạt động của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước để “kết quả hoạt động của một số tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, nguồn lực đầu tư của Nhà nước; có tập đoàn rơi vào tình trạng phá sản, gây tổn thất lớn về kinh tế, làm bức xúc xã hội”. Đánh giá như vậy là đúng mức, phù hợp với thực tế.

Tiếp thu ý kiến các đại biểu, Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho thể hiện rõ hơn đánh giá: “Các tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước đã có những đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế đất nước và là công cụ quan trọng để Nhà nước điều tiết nền kinh tế” trước phần nêu khuyết điểm trong quản lý và những hạn chế, yếu kém của các tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước trong Báo cáo kiểm điểm.

5. Có một số ý kiến đề nghị xem lại đánh giá “Tình trạng nhập siêu, bội chi ngân sách lớn, kéo dài nhiều năm, nợ nước ngoài của Chính phủ và quốc gia tăng nhanh, ảnh hưởng đến ổn định kinh tế vĩ mô, nguy cơ lạm phát còn cao, chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, đầu tư dàn trải, còn nhiều thất thoát, kém hiệu quả”. Đây không phải là khuyết điểm lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị.

Về vấn đề này, Đoàn Chủ tịch xin báo cáo Đại hội như sau:

Tình trạng nhập siêu, bội chi ngân sách còn lớn, kéo dài nhiều năm... như nêu trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan mà trách nhiệm trực tiếp là của các cơ quan quản lý nhà nước, các cấp, các ngành. Nhưng Bộ Chính trị, với quyền hạn và trách nhiệm của mình theo quy định của Điều lệ Đảng và Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá X thì Bộ Chính trị cũng có khuyết điểm. Vì vậy, Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho giữ đánh giá này trong Báo cáo kiểm điểm.

*

* *

Trên đây là giải trình, tiếp thu của Đoàn Chủ tịch về những ý kiến góp ý của đại biểu Đại hội vào các văn kiện trình Đại hội XI. Đoàn Chủ tịch trình xin ý kiến Đại hội và đề nghị Đại hội ghi phiếu biểu quyết về một số vấn đề trong các văn kiện.



[1]. Khoản 5, Điều 36: “Cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra cấp trên có quyền chuẩn y, thay đổi hoặc xoá bỏ hình thức kỷ luật do cấp dưới quyết định”.

[2]. Khoản 2, Điều 38: “Trường hợp tổ chức đảng cấp dưới không xử lý hoặc xử lý không đúng mức đối với tổ chức đảng và đảng viên vi phạm thì cấp uỷ hoặc uỷ ban kiểm tra cấp trên quyết định các hình thức kỷ luật theo thẩm quyền, đồng thời xem xét trách nhiệm của tổ chức đảng đó”

.

Bản quyền thuộc về "Báo Công Thương Điện Tử", chỉ được dẫn nguồn khi có thỏa thuận bằng văn bản.