Báo cáo tiếp thu, giải trình của Đoàn Chủ tịch Đại hội về ý kiến thảo luận của các Đại biểu đối với các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng

Báo cáo tiếp thu, giải trình của Đoàn Chủ tịch ĐH về ý kiến thảo luận của các Đại biểu đối với các văn kiện trình ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng

BÁO CÁO TIẾP THU, GIẢI TRÌNH CỦA ĐOÀN CHỦ TỊCH ĐẠI HỘI VỀ Ý KIẾN THẢO LUẬN CỦA CÁC ĐẠI BIỂU ĐỐI VỚI CÁC VĂN KIỆN TRÌNH ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XII CỦA ĐẢNG

(Do đồng chí Đinh Thế Huynh, Ủy viên Bộ Chính trị , Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung trọng trình bày ngày 26 tháng 01 năm 2016)

Kính thưa Đoàn Chủ tịch

Kính thưa đại biểu Đại hội,

Chiều ngày 21, ngày 22 và sáng ngày 23-01-2016, Đại hội thảo luận về các văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Có 686 ý kiến phát biểu tại đoàn và 34 tham luận tại Hội trường.

Đoàn Thư ký của Đại hội đã có báo cáo tổng hợp các ý kiến của đại biểu. Các ý kiến đại biểu đề cập hầu hết những nội dung quan trọng của các văn kiện: không khí thảo luận sôi nổi, thẳng thắn, có trao đổi, tranh luận, đã phân tích làm sáng tỏ, sâu sắc thêm và bổ sung nhiêu nội dung quan trọng.

Hầu hết các ý kiến của đại biểu nhất trí cao với kết cấu, nội dung của các văn kiện và cho rằng, các văn kiện đã được chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng, nghiêm túc; kết cấu chặt chẽ, khoa học, có sự đổi mới, nội dung ngắn gọn, súc tích, có tính tổng kết và khái quát cao. Các văn kiện đã tiếp thu nghiêm túc, có chọn lọc ý kiến của đại hội đảng bộ các cấp, góp ý của các tổ chức và nhân dân chất lượng được nâng lên; đã đạt được sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Đồng thời có nhiều ý kiến đại biểu đề nghị bổ sung, hoàn thiện, làm rõ, sâu sắc thêm một số nội dung về đánh giá, nhận định dự báo, mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp. Một số ý kiến góp ý cụ thể về câu chữ trong các văn kiện. Đoàn Chủ tịch trân trọng ý kiến của các đại biểu; nhiều vấn đề lớn các đại biểu nêu ra đã làm sâu sắc thêm nội dung của các văn kiện.

Đoàn Chủ tịch báo cáo tiếp thu, giải trình với Đại hội về một số vấn đề quan trọng các đại biểu đã nêu như sau:

I- VỀ BÁO CÁO CHÍNH TRỊ

1. Về chủ đề Đại hội XII (cũng là tiêu đề của Báo cáo chính trị)

Hầu hết ý kiến của đại biểu nhất trí với chủ đề Đại hội (cũng là tiêu đề của Báo cáo chính trị). Có ý kiến đề nghị bỏ từ "sớm”. Có ý kiến đề nghị thay cụm từ “sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” bằng cụm từ “để nước ta đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh dân chủ công bằng, văn minh”.

Đoàn Chủ tịch xin báo cáo Đại hội: Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định mục tiêu phấn đấu lâu dài của đất nước ta là "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI đưa nước ta trở thành “nước công nghiệp hiện đại”. Báo cáo chính trị nhận định: “nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu vào năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được”. Do vậy, Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho giữ mục tiêu nêu trong chủ đề Đại hội: “Phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, với nghĩa là "sớm nhất” sau năm 2020; đồng thời giao Ban Chấp hành Trung ương khoá XII tiếp tục xác định rõ những tiêu chí, chỉ tiêu cần đạt được để nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

2. Về đánh giá tổng quát kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI (2011 - 2015) và nhìn lại 30 năm đổi mới

- Về đánh giá tổng quát kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, có một số ý kiến đế nghị thay nhận định “những thành quả quan trọng” bằng “những thành quả rất quan trọng” hoặc “thành tựu quan trọng", hoặc “những kết quả nhất định”.

- Về nhìn lại 30 năm đổi mới (1986 - 2016), có ý kiến đề nghị đánh giá 30 năm đổi mới cần chia ra các giai đoạn cụ thể để đánh giá sát và chính xác hơn. Có ý kiến đề nghị thay nhận định “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử" bằng nhận định "những thành tựu vĩ đại".

Đoàn Chủ tịch xin báo cáo Đại hội:

- Về đánh giá 5 năm, trên cơ sở nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật một cách toàn diện, Báo cáo nhận định: "Nhìn tổng quát, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành quả quan trọng". Đánh giá như vậy là phù hợp, đúng mức, phản ánh được cả những nỗ lực, cố gắng của chúng ta trong bối cảnh khó khăn, phức tạp của tình hình thế giới và trong nước, cũng như cả những yếu kém, khuyết điểm cần được khắc phục.

- Về nhìn lại 30 năm đổi mới: Đổi mới là một quá trình liên tục, đánh giá 30 năm đổi mới cần có cách nhìn tổng thể, xuyên suốt không thể chia cắt các giai đoạn. Báo cáo viết : "Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững". Đánh giá như vậy là khách quan, toàn diện, khẳng định những thành tựu to lớn, đồng thời cũng chỉ ra những hạn chế, yếu kém để có phương hướng khắc phục, tiếp tục địa sự nghiệp đổi mới tiến lên.

3. Về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị

Có ý kiến đại biểu cho rằng: Thực tế 30 năm qua, thành tựu lớn nhất, bao trùm nhất của công cuộc đổi mới là chúng ta đã chuyển được nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, đã làm thay đổi căn bản cuộc sống và đưa đất nước phát triển, nhưng 70 năm qua cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động của bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể các cấp trong hệ thống chính trị gần như không thay đổi. Thực tế 5 năm qua chúng ta đã tích cực đổi mới thể chế về kinh tế và đạt được một số kết quả nhất định, nhưng đổi mới chính trị hầu như chưa làm gì, chính vì vậy công cuộc đổi mới 5 năm qua chưa thực sự đem lại hiệu quả như mong muốn.

Đoàn Chủ tịch xin báo cáo Đại hội như sau:

Đại hội VI đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, xác định phải có bước đi, cách làm phù hợp và chú trọng giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.

Đổi mới chính trị ở nước ta, trọng tâm là đổi mới hệ thống chính trị, trong 30 năm đổi mới vừa qua, được thể hiện trước hết qua việc chuyển từ hệ thống chuyên chính vô sản sang hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, từ Nhà nước chuyên chính vô sản sang Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hệ thống chính trị từng bước được đổi mới đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, là nhân tố quyết định phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, thúc đẩy kinh tế phát triển, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân. Trong 5 năm qua, Quốc hội đã kịp thời thể chế hoá Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), xây dựng, ban hành, tích cực triển khai Hiến pháp năm 2013 và nhiều bộ luật, luật. Trung ương ban hành và lãnh đạo thực hiện. Kết luận một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức trong hệ thống chính trị được xác định ngày càng rõ hơn. Từng bước đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò chủ động, tích cực trong quản lý của Nhà nước, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Công tác xây dựng Đảng, đổi mới hệ thống chính trị đạt kết quả quan trọng. Cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động của bộ máy đảng, nhà nước, Mặt trận Tỏ quốc và đoàn thể các cấp trong hệ thống chính trị có những đổi mới.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả, thành tựu đạt được. Báo cáo chính trị trình Đại hội cùng đã nêu rõ: Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ. Đồng thời Báo cáo cũng nhấn mạnh: Trong 5 năm tới cần đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xử lý tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. bảo đảm tính đồng bộ giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị; đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

4. Về mục tiêu tổng quát phát triển đất nước trong 5 năm tới

Về mục tiêu “phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, một số ý kiến đề nghị xác định rõ “sớm” là khoảng thời gian nào; xác định rõ các tiêu chí “nước công nghiệp theo hướng hiện đại”; cân nhắc bỏ cụm từ “cơ bản”.

Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho giữ mục tiêu: “phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, như Đoàn Chủ tịch đã giải trình về chủ đề Đại hội.

5. Về quốc phòng, an ninh

Có ý kiến cho rằng, đưa cụm từ “kiên quyết, kiên trì" vào phần đánh giá tình hình bảo vệ Tổ quốc là không phù hợp, chỉ nên sử dụng cụm từ này ở phần phương hướng, nhiệm vụ; hoặc trong đánh giá tình hình chỉ nên sử dụng từ “kiên quyết".

Đoàn Chủ tịch xin báo cáo Đại hội: Cụm từ “kiên quyết, kiên trì” vừa thể hiện quyết tâm chiến lược, trước sau như một của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, cả trong những năm qua và trong giai đoạn tới, vừa xác định rõ tính chất lâu dài, phức tạp của cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Do vậy, đề nghị Đại hội cho giữ cách trình bày cụm từ “kiên quyết, kiên trì” như trong Báo cáo.

6. Về vấn đề hợp nhất một số cơ quan của Đảng và cơ quan của Nhà nước

Về chủ trương thí điểm hợp nhất một số cơ quan của Đảng và cơ quan của Nhà nước tương đồng về chức năng, nhiệm vụ, có ý kiến đại biểu đề nghị cân nhắc kỹ hơn, vì chức năng các cơ quan của Đảng khác với chức năng các cơ quan của Nhà nước. Một số ý kiến khác đề nghị Trung ương có chủ trương cho các địa phương đủ điều kiện được áp dụng một số mô hình tổ chức mới; có ý kiến đề nghị Trung ương ra nghị quyết về vấn đề này để tổ chức thực hiện.

Đoàn Chủ tịch xin báo cáo Đại hội: Hội nghị Trung ương 9 khoá X đã nêu rõ: Nghiên cứu, xây dựng và thực hiện thí điểm một số đề án, trong đó có Đề án nhất thể hoá một số tổ chức và chức danh lãnh đạo của Đảng, chính quyền ở cấp xã, huyện, tỉnh. Vừa qua, nhiều ý kiến của đại hội đảng các cấp, của đại biểu Quốc hội, của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và của nhân dân đề nghị thực hiện thí điểm việc hợp nhất trong nhiệm kỳ 2016 - 2020. Tuy nhiên cũng có nhiều ý kiến cho rằng, không thể hợp nhất cơ quan đảng, cơ quan nhà nước vì chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Vì vậy, Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho diễn đạt như trong Báo cáo là: “Nghiên cứu thc hiện thí điểm hợp nhất một scơ quan đảng và nhà nước tương đồng về chức năng, nhiệm vụ.

7. Về nhiệm vụ trọng tâm

Một số ý kiến đề nghị bổ sung nội dung “bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội” vào sau cụm từ “giữ vững môi trường hoà bình, ổn định” trong nhiệm vụ trọng tâm.

Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho tiếp thu, bổ sung nội dung “bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội vào sau nội dung “giữ vững môi trường, hoà bình, ổn định” và diễn đạt như sau: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định và phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội...”.

II- VỀ BÁO CÁO ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2011 - 2015 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2016 - 2020

1. Về đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015

Một số ý kiến đại biểu đề nghị trình bày rõ hơn: Kết quả về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, vai trò của kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, thực hiện 3 đột phá chiến lược; bảo vệ tài nguyên, môi trường; chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số.

Một số ý kiến đề nghị: Cần nêu rõ các chỉ tiêu không đạt; đánh giá rõ hơn về nợ xấu, nợ quốc gia, nợ công, nguy cơ thâm hụt quỹ bảo hiểm xã hội.

Một số ý kiến cho rằng: Kinh tế thị trường chưa vận hành đầy đủ; thực hiện cơ cấu lại kinh tế chưa được nhiều; đổi mới giáo dục, đào tạo còn nhiều hạn chế, hiệu quả thấp; chính sách an sinh xã hội còn chồng chéo nguồn lực và thực thi còn khó khăn, hiệu quả thấp; đạo đức xã hội có mặt xuống cấp nghiêm trọng; hội nhập quốc tế triển khai chưa thật đồng bộ, hiệu quả, doanh nghiệp còn thiếu chủ động.

Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho tiếp thu các ý kiến để hoàn thiện Báo cáo.

2. Về bối cảnh quốc tế và trong nước tác động đến phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020

Một số ý kiến đại biểu đề nghị: Nhấn mạnh thêm yếu tố cạnh tranh trong hội nhập quốc tế, trình bày rõ hơn thực trạng năng lực các doanh nghiệp Việt Nam và đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, nguy cơ tụt hậu về kinh tế của nước ta so với các nước trong khu vực; tác động của biến đổi khí hậu; tác động của quan hệ với các nước lớn, các hiệp định song phương, đa phương (như Hiệp định TPP, Cộng đồng ASEAN, ..); diễn biến phức tạp trên Biển Đông,... để có đối sách phù hợp.

Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho tiếp thu các ý kiến của đại biểu để thể hiện rõ hơn trong Báo cáo.

3. Về các chỉ tiêu chủ yếu giai đoạn 2016 - 2020

Một số ý kiến đại biểu đề nghị xem lại tính khả thi của chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 6,5 - 7%, cho rằng như vậy là cao, khó thực hiện; một số ý kiến khác cho rằng cần xác định mục tiêu cao hơn. Một số ý kiến đề nghị cân nhắc điều chỉnh giảm hoặc tăng một số chỉ tiêu khác.

Đoàn Chủ tịch xin báo cáo Đại hội: Các chỉ tiêu chủ yếu đã được rà soát, tính toán kỹ, có cơ sở thực tiễn, đảm bảo cân đối chung và được đa số ý kiến đồng tình. Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho giữ như Báo cáo.

4. Về nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu

Nhiều ý kiến đại biểu đóng góp đề xuất cụ thể về một số nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội 5 năm tới: Đổi mới mạnh mẽ thể chế về sở hữu, quyền sở hữu tài sản, sở hữu tư nhân, sở hữu đất, quản lý, sử dụng đất; đổi mới tư duy về nợ công, cơ cấu lại ngân sách nhà nước; đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, tập trung phát triển các sản phẩm cơ khí đầu tàu; hỗ trợ doanh nghiệp trong nước cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp FDI và hội nhập hiệu quả; đầu tư hạ tầng giao thông cho các đảo, khuyến khích ngư dân bám biển, sinh sống tại các đảo; cần có cơ quan thống nhất tham mưu về phát triển kinh tế biển; quan tâm phát triển kinh tế vùng, thu hẹp khoảng cách phát triển; có cơ chế đặc thù cho các thành phố lớn, các vùng kinh tế trọng điểm.

Một số ý kiến đề nghị: Xác định vị thế của doanh nghiệp là vị thế của quốc gia; thúc đẩy hiện đại hoá nền kinh tế song hành với nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực tư nhân; mạnh dạn huy động các nguồn lực, cơ chế đặc thù để phát triển mạnh kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông; thúc đẩy gia tăng mật độ kinh tế trong quá trình đô thị hoá và tăng cường tính kết nối giữa các đô thị và vùng lân cận; thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo, bảo đảm mức tối thiểu về các dịch vụ xã hội cơ bản, đẩy mạnh giảm nghèo bền vững, hỗ trợ các vùng khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số, thúc đẩy phát triển tầng lớp trung lưu; phát triển bền vững về môi trường và tăng cường khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu.

Một số ý kiến đề nghị: Có quy định về trách nhiệm giải trình của cán bộ, công chức; kiểm soát chặt chẽ thu nhập, sớm có mô hình tổ chức cơ quan chống tham nhũng đủ mạnh và hiệu quả; kiên quyết chỉ đạo, sắp xếp lại bộ máy trong hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức, có giải pháp mạnh mẽ nhằm tinh giản biên chế và đãi ngộ, trọng dụng nhân tài; bảo đảm quyền tiếp cận thông tin chính xác, kịp thời của người dân.

Đoàn Chủ tịch xin báo cáo Đại hội:

Nhiều ý kiến nêu trên là hợp lý, đề nghị Đại hội cho tiếp thu để bổ sung, hoàn thiện Báo cáo. Những góp ý chi tiết, cụ thể sẽ đưa vào Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và lưu ý trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo điều hành.

III- VỀ BÁO CÁO TỔNG KẾT THI HÀNH ĐIỂU LỆ ĐẢNG VÀ ĐỀ XUẤT BỔ SUNG, SỬA ĐỔI ĐIỀU LỆ ĐẢNG KHOÁ XI (NẾU CÓ)

1. Về một số quy định trong Điều lệ Đảng

- Về Điều 3:

Có ý kiến đại biểu đề nghị xem xét, sửa đổi Điều 3 Điều lệ Đảng khoá XI theo hướng bảo đảm quyền ứng cử và đề cử của đại biểu đại hội.

Đoàn Chủ tịch xin báo cáo Đại hội: Điều 3 trong Điều lệ Đảng khoá XI đã quy định rõ về các quyền của đảng viên, trong đó có quyền ứng cử, đề cử và bầu cử. Về quyền ứng cử, đề cử của đại biểu đại hội được cụ thể hoá trong quy chế bầu cử tại Đại hội theo hướng bảo đảm quyền của đại biểu đại hội, đồng thời tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng.

- Về Điều 12:

Có ý kiến đại biểu đề nghị quy định đã là bí thư cấp uỷ cấp dưới thì đương nhiên là cấp uỷ viên cấp trên; bí thư tỉnh uỷ, thành uỷ trực thuộc Trung ương đương nhiên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, Đại hội đại biểu toàn quốc chỉ phê chuẩn theo kết quả bầu cử ở đại hội đảng bộ tỉnh, thành phố.

Đoàn Chủ tịch xin báo cáo Đại hội: Theo nguyên tắc tổ chức của Đảng thì các cơ quan lãnh đạo, các chức danh lãnh đạo của Đảng đều do bầu cử lập ra. Một trong những nội dung rất quan trọng cua Đại hội đại biểu toàn quốc là bầu Ban Chấp hành Trung ương; việc quy định bí thư cấp uỷ cấp dưới đương nhiên là cấp uỷ viên cấp trên là không phù hợp với nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng.

- Về Điều 31:

Có ý kiến đại biểu đề nghị quy định đại hội các cấp bản uỷ ban kiểm tra.

Đoàn Chủ tịch xin báo cáo Đại hội: Vấn đề này trong quá trình thảo luận từ nhiều nhiệm kỳ vừa qua, còn nhiều ý kiến khác nhau, cần được tiếp tục nghiên cứu, tổng kết.

Qua thảo luận tại Dại hội, hầu hất các đại biểu nhất trí không bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng tại Đại hội này. Đoàn Chủ tịch xin Đại hội biểu quyết về vấn đề này.

2. Về hướng dẫn thi hành Điều lệ Đảng

Một số ý kiến đại biểu đề nghị: Thủ tục kết nạp đảng cần được hướng dẫn đơn giản hơn; hướng dẫn để thực hiện thống nhất về thời gian công nhận đảng viên chính thức và cách tính tuổi đảng. Một số ý kiến đề nghị: Quy định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ của đảng uỷ khối cơ quan, đảng uỷ khối doanh nghiệp, đảng đoàn, ban cán sự đảng, Ban Kinh tế Trung ương, Ban Nội chính Trung ương, Ban dân vận Trung ương; hướng dẫn đầy đủ hơn về hoạt động của chi bộ cơ quan ở xã, phương, thị trấn và nơi sinh hoạt của đảng viên là công chức xã; sớm ban hành quy định về tổ chức đảng cấp trên cơ sở ở tập đoàn, tổng công ty, công ty cổ phần có vốn nhà nước.

Một số ý kiến đề nghị: Giao cho ban thường vụ cấp ủy quyết định kỷ luật cán bộ thay cho cấp uỷ; thu hẹp thẩm quyền kỷ luật của chi bộ, đơn giản hoá quy trình kiểm tra; xác định cấp giải quyết khiếu nại cuối cùng cho phù hợp.

Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho tiếp thu những ý kiến nêu trên và giao Ban Chấp hành Trung ương khoá XII nghiên cứu để quy định, hướng dẫn cụ thể nhằm giải quyết những vướng mắc trong thi hành Điều lệ Đảng khoá XI.

IV- VỀ BÁO CÁO TỔNG KẾT THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 4 KHOÁ XI “MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẤP BÁCH VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG HIỆN NAY”

1. Một số ý kiến đại biểu cho rằng, việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 có biểu hiện chùng xuống ở cuối nhiệm kỳ khoá XI.

Đoàn Chủ tịch xin báo cáo Đại hội như sau:

Nghị quyết Trung ương 4 nêu 3 vấn đề cấp bách và 4 nhóm giải pháp để thực hiện, trong đó nhóm giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiên phong, gương mẫu của cấp trên là nhóm giải pháp thứ nhất đã được triển khai ngay sau khi Nghị quyết được ban hành (năm 2012); các nhóm giải pháp khác để giải quyết các vấn đề còn lại của Nghị quyết đòi hỏi phải có thời gian. Kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về công tác cán bộ là bước quan trọng để chuẩn bị nhân sự cấp uỷ, nhân sự cán bộ chủ chốt nhiệm kỳ 2015 - 2020 của đảng bộ các cấp và nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhiệm kỳ 2011 - 2021; nhiều quy định, quy chế về công tác cán bộ được xây dựng mới hoặc bổ sung, hoàn thiện, đặc biệt là Quy chế bầu cử trong Đảng do Ban Chấp hành Trung ương ban hành đã góp phần trực tiếp vào thành công của đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội XII của Đảng.

Tuy nhiên, từ cuối năm 2013 việc kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 đã được đưa vào kiểm điểm thường xuyên hằng năm, cho nên ở nơi này, nơi khác cũng có biểu hiện chùng xuống. Trước yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề của thời kỳ phát triển mới, toàn Đảng phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì với quyết tâm chính trị cao tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI về xây dựng Đảng.

2. Một số ý kiến đại biểu đề nghị cân nhắc đánh giá chung về chỉ đạo và tổ chức triển khai Nghị quyết: “Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp đã tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 bài bản, quyết liệt và đã đạt được kết quả bước đầu quan trọng, tạo chuyển biến tích cực trong hệ thống chính trị, góp phần cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, từng bước ngăn chặn, đẩy lùi một số tiêu cực, suy thoái trong Đảng, giải quyết kịp thời một số vấn đề bức xúc trong xã hội, góp phần tăng cường niềm tin của nhân dân vào Đảng, song một số việc chưa đáp ứng yêu cầu, chưa đạt được mục tiêu Nghị quyết đề ra”. Đánh giá như vậy có lạc quan quá không, có phù hợp không?

Đoàn Chủ tịch xin báo cáo Đại hội như sau:

Nghị quyết Trung ương 4 nhìn chung đã được triển khai thực hiện nghiêm túc từ Trung ương đến địa phương, hằng năm Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp uỷ trực thuộc đều tổ chức các cuộc kiểm tra, giám sát việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện Nghị quyết. Các năm 2012, 2013, 2014 trên cơ sở báo cáo của các cấp uỷ, tổ chức đảng trực thuộc, tập thể lãnh đạo các cơ quan Trung ương, Bộ Chính trị đều có đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết và xác định nhiệm vụ trọng tâm năm tới để chỉ đạo thực hiện Nghị quyết. Năm 2015 các cấp uỷ trực thuộc đều có báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 trình đại hội đảng bộ cấp mình và báo cáo Trung ương. Trên cơ sở báo cáo của các cấp uỷ trực thuộc và tình hình thực tế, Bộ Chính trị đã chỉ đạo chuẩn bị Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết trong toàn Dùng với tinh thần nghiêm túc, thẳng thắn, đánh giá đúng kết quả đạt được, những hạn chế, khuyết điểm và nguyên nhân. Dự thảo Báo cáo tổng kết đã được xin ý kiến các cấp uỷ, tổ chức đảng trực thuộc tại các hội nghị ở 3 miền và tiếp thu, hoàn chỉnh trình Hội nghị Trung ương 13 xem xét. Tại Hội nghị, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận nghiêm túc vấn đề này và thống nhất trình Đại hội. Do vậy, Đoàn Chủ tịch đề nghị Dại hội cho giữ đánh giá chung về tổ chức chỉ đạo và triển khai thực hiện Nghị quyết như đã thể hiện trong Báo cáo.

3. Một số ý kiến đề nghị cân nhắc thể hiện thống nhất đánh giá hạn chế, khuyết điểm trong thực hiện Nghị quyết giữa Báo cáo chính trị và Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (trong Báo cáo chính trị diễn đạt "Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn"; trong Báo cáo tổng kết diễn đạt "Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên đã bước đầu được ngăn chặn song chưa được đẩy lùi").

Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho tiếp thu, thể hiện nhất quán về nội dung đánh giá giữa các văn kiện Dại hội.

V- VỀ BÁO CÁO KIỂM ĐIỂM SỰ LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO CỦA BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG KHÓA XI

1. Về những ưu điểm nổi bật trong nhiệm kỳ Đại hội XI

Phần lớn các ý kiến nhất trí với những ưu điểm đã nêu trong Báo cáo. Đồng thời nhấn mạnh, trên cơ sở Cương lĩnh, nghị quyết của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã lãnh đạo, điều hành phù hợp, sát đúng. Trong bối cảnh khó khăn do tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu, tình hình phức tạp trên Biển Đông, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã thận trọng, sáng suốt, bản lĩnh, kịp thời đưa ra những quyết sách đúng đắn, phát huy cao độ tinh thần yêu nước và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc bảo đảm được sự ổn định chính trị - xã hội và môi trường hoà bình để phát triển đất nước. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 là điểm nhấn của nhiệm kỳ. Nhiều nghị quyết của Đảng đã đi vào cuộc sống, nhất là Nghị quyết về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, phong trào xây dựng nông thôn mới tạo ra những động lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Nghị quyết của Đảng về hội nhập quốc tế trong tình hình mới được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo; ngoại giao nhà nước, đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân đi vào chiều sâu, phát huy được nhiều lợi thế, đem lại nhiều thành công, đoàn kết quốc tế với Việt Nam được tăng cường, tạo điều kiện thuận lợi cho xây dựng và bảo vệ đất nước, nâng cao vị thế uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

Đoàn Chủ tịch xin báo cáo Đại hội: Các nội dung trên đã được thể hiện ở những mức độ nhất định trong Báo cáo; Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho tiếp thu để bổ sung, làm rõ hơn những thành công nổi bật của nhiệm kỳ này trong Báo cáo.

2. Về công tác cán bộ

Một số ý kiến đại biểu cho rằng, công tác quy hoạch cán bộ chậm đổi mới, còn hẫng hụt, nhất là cấp Trung ương, luân chuyển cán bộ có trường hợp còn hình thức, chưa lựa chọn kỹ càng, chưa rõ mục tiêu đào tạo rèn luyện cán bộ; việc sắp xếp, điều động cán bộ từ địa phương về Trung ương nước Đại hội là chưa hợp lý, hơi vội vàng.

Đoàn Chủ tịch xin báo cáo Đại hội:

Ban Chấp hành Trung ương nhận thức rõ công tác cán bộ luôn là vấn đề đặc biệt quan trọng của đất nước và nhân sự Trung ương lại càng quan trọng Quy trình nhân sự Đại hội XII được bắt đầu chuẩn bị từ giữa nhiệm kỳ khoá XI. Bộ Chính trị đã hướng dẫn các cấp uỷ đang trực thuộc Trung ương, các ban đảng Trung ương, các đồng chí Uỷ viên Trung ương Đảng phát hiện, giới thiệu nhân sự. Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị tập hợp, nghiên cứu, lựa chọn, đề xuất danh sách trình Trung ương thông qua. Nhìn chung, công tác quy hoạch được thực hiện từ sớm, đủ thời gian cân nhắc, dân chủ thảo luận và quyết định các phương án. Các đồng chí đi luân chuyển nói chung được lựa chọn kỹ, xác định mục tiêu đào tạo, rèn luyện cán bộ. Khi thực hiện công tác nhân sự, trên cơ sở quy hoạch và kết quả đại hội đảng bộ các cấp tính toán, cân nhắc kỹ phương án nhân sự đối với số cán bộ đã luân chuyển.

Về việc điều động cán bộ địa phương về Trung ương: Phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII (được thông qua tại Hội nghị lần thứ 11 khoá XI) đã xác định, quá trình chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành tung ương khoá XII cần tiến hành đồng thời với việc thẩm định, giới thiệu nhân sự lãnh đạo các tỉnh uỷ, thành uỷ nhiệm kỳ 2015 - 2020 và chuẩn bị nhân sự lãnh đạo các ban, bộ, ngành, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương.

Thực hiện phương hướng nêu trên, thời gian qua Bộ Chính trị đã quyết định điều động một số đồng chí Uỷ viên Trung ương công tác ở địa phương về công tác ở các cơ quan Trung ương, chủ yếu là các ban đảng Trung ương. Trong số được điều động, một số đồng chí đã giữ chức vụ bí thư tỉnh uỷ 2 nhiệm kỳ; một số đồng chí tuy giữ chức vụ bí thư 1 nhiệm kỳ, nhưng đã quá tuổi tái cử cấp uỷ địa phương theo Chỉ thị 36, nhưng vẫn còn đủ tuổi tái cử Ban Chấp hành Trung ương. Bộ Chính trị căn cứ vào yêu cầu cụ thể của cơ quan Trung ương và nguyện vọng cá nhân đồng chí được điều động để xem xét, quyết định điều động.

Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho tiếp thu các ý kiến; giao Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá XII rút kinh nghiệm để làm tốt hơn công tác này.

- Một số ý kiến đại biểu cho rằng, công tác đánh giá cán bộ vẫn là điểm yếu; Bộ Chính trị, Ban Bí thư chưa đánh giá cán bộ theo phân cấp quản lý và theo Quy chế làm việc.

Đoàn Chủ tịch xin báo cáo Đại hội: Các ý kiến trên là xác đáng, trong Báo cáo củng đã nhận khuyết điểm về vấn đề này. Để công tác đánh giá cán bộ đi vào nền nếp và từng bước nâng cao chất lượng công tác này, đề nghị Đại hội cho tiếp thu, nêu rõ hơn trong Báo cáo và để nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá XII chỉ đạo Ban Tổ chức Trung ương chủ trì, phối hợp với các ban tham mưu có liên quan của Trung ương Đảng giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá mới khắc phục khuyết điểm, thực hiện công tác này đúng với quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương.

3. Về hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo

Một số ý kiến đại biểu cho rằng, trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương, có một số việc chưa phân cấp hợp lý, chủ trương lãnh đạo một số việc quá cụ thể, có việc còn ôm đồm, làm thay các cơ quan khác.

Đoàn Chủ tịch xin báo cáo Đại hội như sau:

Quy chế làm việc khoá XI tiếp tục phân định cụ thể hơn thẩm quyền, trách nhiệm của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng như các chức danh lãnh đạo, quy định rõ hơn trách nhiệm lãnh đạo và mối quan hệ với cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư luôn bám sát Quy chế làm việc. Ban Chấp hành Trung ương xây dựng Chương trình làm việc toàn khoá, Bộ Chính trị, Ban Bí thư xây dựng Chương trình làm việc hằng năm.

Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo toàn diện các mặt của đời sống xã hội thông qua các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, đồng thời tôn trọng và phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong quá trình tổ chức thực hiện.

Tiếp thu ý kiến các đại biểu, Đoàn Chủ tịch đề nghị Ban Chấp hành Trung ương khoá XII khi xây dựng Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá XII, tiếp tục làm rõ hơn việc phân công, phân cấp. nhằm giảm bớt hội họp và nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng.

ĐOÀN CHỦ TỊCH ĐÃ XIN Ý KIẾN VÀ ĐƯỢC TUYỆT ĐẠI ĐA SỐ ĐẠI BIỂU ĐẠI HỘI ĐỒNG Ý CHO BIỂU QUYẾT MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG CÁC VĂN KIỆN TRÌNH ĐẠI HỘI:

1. Về chủ đề Đại hội

2. Về mục tiêu tổng quát

3. Về một số chỉ tiêu chủ yếu: Tốc độ tăng trưởng; bình quân đầu người; bội chi ngân sách;...

4. Về vấn đề sửa đổi Điều lệ Đảng

Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội giao cho Ban Chấp hành Trung ương khoá XII cân nhắc kỹ, tiếp thu các ý kiến để hoàn chỉnh các văn kiện. Về nhiều nội dung cụ thể, đề nghị Đại hội giao cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khoá XII nghiên cứu, lãnh đạo, chỉ đạo trong thời gian tới.

*

* *

Trên đây là Báo cáo tiếp thu và giải trình của Doàn Chủ tịch về ý kiến của đại biểu tại Đại hội vào các văn kiện trình Đại hội XII. Đoàn Chủ tịch xin báo cáo Đại hội.

.

Bản quyền thuộc về "Báo Công Thương Điện Tử", chỉ được dẫn nguồn khi có thỏa thuận bằng văn bản.