15:17 | 24/12/2022
Địa điểm: Thủ đô Hà Nội
Số lượng đảng viên trong cả nước: 2.155.022
Số lượng tham dự Đại hội: 1.176 đại biểu
Tổng bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Đỗ Mười
Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 146 uỷ viên
Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 13 uỷ viên
Nhiệm vụ chính: Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đưa đất nước đi theo con đường đổi mới
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, họp từ ngày 24 đến 27-6-1991, tại Hội trường ba Đình, Thủ đô Hà Nội.
Dự Đại hội có 1.176 đại biểu, thay mặt cho hơn 2 triệu đảng viên trong cả nước. Có hơn 30 đoàn đại biểu quốc tế tham dự đại hội.
Đại hội VII là Đại hội của trí tuệ-đổi mới, dân chủ-kỷ cương-đoàn kết; là Đại hội lần đầu tiên thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội một lần nữa khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 146 uỷ viên. Bộ Chính trị gồm có 13 uỷ viên. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 (khoá VII) bầu bổ sung 4 uỷ viên Bộ Chính trị.
Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ của Đảng đã họp từ ngày 20 đến 25-1-1994, nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Hội nghị bầu bổ sung 20 uỷ viên Trung ương để thay thế các đồng chí vì lý do sức khoẻ tự nguyện rút lui và các đồng chí bị kỷ luật.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã họp 9 lần để bàn và quyết định nhiều vấn đề quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Trong đó có vấn đề thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện; chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH đất nước; cải cách hành chính, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; và các định hướng lớn về công tác tư tưởng và lý luận.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam được tiến hành vào tháng 6-1991, trong bối cảnh quốc tế và trong nước đang có những diễn biến phức tạp. Đó là những biến động đã và đang xảy ra trong các nước xã hội chủ nghĩa, sự tiến công nhiều phía vào chủ nghĩa xã hội, vào chủ nghĩa Mác-Lênin và Đảng cộng sản, những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch quốc tế hòng xoá bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực và sự hoang mang dao động trong một bộ phận lớn những người cộng sản trên thế giới đã tác động mạnh đến tư tưởng và tình cảm của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam. Đất nước ta cũng phải đương đầu với các hoạt động phá hoại của các lực lượng thù địch ở cả ngoài nước và ở trong nước. Nhưng nhờ những thành tựu bước đầu của gần năm năm đổi mới, chúng ta đã đứng vững và tiếp tục tiến lên, mặc dù còn nhiều khó khăn. Đất nước vẫn chưa chấm dứt được sự khủng hoảng về kinh tế - xã hội.
Đại hội họp nội bộ từ ngày 17-22 tháng 6-1991. Từ ngày 24 đến ngày 27-6-1991 Đại hội họp công khai.
Dự Đại hội có 1.176 đại biểu nam và nữ đại diện cho hơn hai triệu đảng viên ở các lĩnh vực hoạt động khác nhau từ mọi miền của đất nước và đang công tác ở nước ngoài.
Đến dự Đại hội còn có đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Liên Xô, đoàn đại biểu của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, đoàn đại biểu của Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia, đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Cu Ba. Dự khai mạc Đại hội còn có đại biểu Đảng Cộng sản Nhật Bản thường trú tại Hà Nội, các vị trong đoàn ngoại giao, đại diện các tổ chức quốc gia và quốc tế, đại diện các tổ chức phi chính phủ tại Hà Nội.
Võ Chí Công đọc diễn văn khai mạc, Nguyễn Văn Linh đọc Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương về các văn kiện Đại hội VII.
Đại hội có nhiệm vụ tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, đánh giá những việc làm được, những việc có thể làm nhưng chưa làm được, những vấn đề mới nảy sinh, chỉ ra những ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và những kinh nghiệm tiến hành đổi mới trên các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội. Trên cơ sở đó Đại hội đề ra phương hướng, mục tiêu và các nhiệm vụ chủ yếu cho năm năm tới. ý nghĩa trọng đại của Đại hội VII còn ở chỗ, đây là lần đầu tiên Đại hội thông qua Cương lĩnh vạch ra những quan niệm và phương hướng cơ bản về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thông qua chiến lược ổn định và phát triển kinh tế, xã hội đến năm 2000.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội đã đánh giá việc thực hiện đổi mới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, sau hơn bốn năm đưa Nghị quyết Đại hội VI vào cuộc sống. Công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Đó là:
- Tình hình chính trị của đất nước ổn định.
- Nền kinh tế có những chuyển biến tích cực: đã đạt được những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, nguồn lực sản xuất của xã hội được huy động tốt hơn, tốc độ lạm phát được kìm chế bớt, đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận nhân dân có phần được cải thiện.
- Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy.
- Quốc phòng được giữ vững, an ninh quốc gia được bảo đảm. Từng bước phá thế bị bao vây về kinh tế và chính trị, mở rộng quan hệ quốc tế, tạo ra môi trường thuận lợi hơn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Những điều nói trên chứng tỏ đường lối đổi mới của Đại hội VI đề ra là đúng, bước đi của công cuộc đổi mới về cơ bản là phù hợp. Đó là cơ sở rất quan trọng để chúng ta tiếp tục tiến lên.
Song chúng ta còn nhiều yếu kém và khó khăn, đất nước vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội, công cuộc đổi mới còn những hạn chế, nhiều vấn đề kinh tế, xã hội nóng bỏng chưa được giải quyết.
Trên cơ sở đánh giá tình hình hơn bốn năm đổi mới, Đại hội lần thứ VII đã rút ra năm bài học kinh nghiệm bước đầu về đổi mới:
Một là, phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới. Phải giữ vững tư duy độc lập và sáng tạo trong việc đề ra đường lối đổi mới phù hợp với đặc điểm tình hình của nước ta, đáp ứng đúng lợi ích và nguyện vọng của nhân dân. Điều kiện cốt yếu để công cuộc đổi mới giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa và đi đến thành công là trong quá trình đổi mới, Đảng phải kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò lãnh đạo xã hội. Đảng phải tự đổi mới và chỉnh đốn, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Đổi mới là một cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đồng thời trong mỗi bước đi lại phải xác định đúng khâu then chốt để tập trung sức giải quyết làm cơ sở đổi mới các khâu khác và lĩnh vực khác. Phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Chính trị đụng chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội, nên việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn đến sự rối loạn. Nhưng không vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới hệ thống chính trị, nhất là về tổ chức bộ máy và cán bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, bởi đó là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện dân chủ.
Ba là, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế, xã hội.
Bốn là, tiếp tục phát huy ngày càng sâu rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng để phát huy dân chủ đúng hướng và đạt kết quả thì quá trình đó phải được lãnh đạo tốt, có bước đi vững chắc phù hợp với tình hình chính trị, xã hội nói chung. Có như vậy mới thực sự bảo đảm được quyền làm chủ của nhân dân, động viên toàn dân hăng hái xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Năm là, trong quá trình đổi mới phải quan tâm dự báo tình hình, kết hợp phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần kiên định thực hiện đường lối đổi mới, tăng cường tổng kết thực tiễn và không ngừng hoàn chỉnh lý luận về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu thì càng xuất hiện nhiều vấn đề mới liên quan đến nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chỉ có tăng cường tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận thì công cuộc đổi mới mới trở thành hoạt động tự giác, chủ động và sáng tạo, bớt được sai lầm và bước đi quanh co, phức tạp.
Báo cáo đã nêu những phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu trong năm năm 1991-1995. Dựa vào việc phân tích đặc điểm, tình hình thuận lợi và khó khăn, căn cứ vào mục tiêu của chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Báo cáo đã xác định "Mục tiêu tổng quát của 5 năm tới là vượt khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế, xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay". Báo cáo cũng nêu lên bốn phương châm chỉ đạo và những nhiệm vụ chủ yếu trong năm năm trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000; Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng; (Điều lệ Đảng sửa đổi).
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã đánh giá tổng quát quá trình cách mạng Việt Nam và nêu lên những bài học kinh nghiệm lớn. Đó là:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết; đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh đã vạch rõ quan niệm của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta sẽ xây dựng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ để thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Để thực hiện dân giàu nước mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa, điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế, xã hội kém phát triển, chiến thắng những lực lượng cản trở việc thực hiện mục tiêu đó, trước hết là các lực lượng thù địch chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường.
Cương lĩnh cũng nêu lên những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, về hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng.
"Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, và của cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác, bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật".
Đại hội đã thông qua Điều lệ của Đảng (sửa đổi). Điều lệ gồm 12 chương 47 điều.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) gồm có 146 uỷ viên là: Nguyễn Văn An, Lê Đức Anh, Đỗ Văn Ân, Nguyễn Bá, Nguyễn Đức Bình, Lê Đức Bình, Nguyễn Thới Bưng, Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Kỳ Cẩm, Huỳnh Văn Cần, Nguyễn Văn Chi, Võ Trần Chí, Nguyễn Văn Chiểu, Nguyễn Văn Chính, Đỗ Chính, Nguyễn Chơn, Đặng Vũ Chư, Nguyễn Nhiêu Cốc, Trần Quang Cơ, Vũ Đình Cự, Huỳnh Cương, Nguyễn Cảnh Dinh, Nguyễn Tấn Dũng, Phạm Thế Duyệt, Hà Quang Dự, Đỗ Bình Dương, Lê Văn Dỹ, Trần Văn Đăng, Hà Đăng, Nguyễn Đệ, Trương Quang Được, Trần Thị Đường, Nguyễn Bình Giang, Hồng Hà, Phạm Minh Hạc, Nguyễn Ngô Hai, Vũ Ngọc Hải, Nguyễn Thị Hằng, Cù Thị Hậu, Nguyễn Văn Hiệu, Trương Mỹ Hoa, Trần Đình Hoan, Nguyễn Đức Hoan, Trần Hoàn, Vũ Tuyên Hoàng, Nguyễn Thị Kim Hồng, Nguyễn Văn Hơn, Vũ Quốc Hùng, Phạm Hưng, Nguyễn Đình Hương, Lê Minh Hương, Đặng Hữu, Phạm Văn Hy, Phan Văn Khải, Nguyễn Khánh, Nguyễn Nam Khánh, Hà Thị Khiết, Vũ Khoan, Đoàn Khuê, Cao Sỹ Kiêm, Lê Văn Kiên, Võ Văn Kiệt, Đặng Xuân Kỳ, Nguyễn Xuân Kỷ, Mai Thúc Lân, Trịnh Văn Lâu, Phạm Tâm Long, Ngô Xuân Lộc, Nguyễn Duy Luân, Trần Lum, Đào Đình Luyện, Trần Đức Lương, Bùi Danh Lưu, Nông Đức Mạnh, Vũ Mão, Nguyễn Thị Minh, Đỗ Mười, Nguyễn Thị Xuân Mỹ, Phạm Thanh Ngân, Hoàng Đức Nghi, Lê Huy Ngọ, Bùi Thiện Ngộ, Đàm Văn Nguỵ, Lê Thanh Nhàn, Nguyễn Trọng Nhân, Võ Hồng Nhân, Thái Bá Nhiệm, Huỳnh Văn Niềm, Nguyễn Niệm, Nguyễn Dy Niên, Nguyễn Thái Ninh, Vũ Oanh, Tráng A Páo, Nguyễn Hà Phan, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Minh Triết (Trần Phong), Đỗ Phượng, Ama Pui, Lò Văn Puốn, Trần Hồng Quân, Nguyễn Duy Quý, Chu Văn Rị, Đỗ Quốc Sam, Trương Tấn Sang, Phạm Song, Nguyễn Đình Sở, Bùi Xuân Sơn, Nguyễn Văn Sĩ, Nguyễn Công Tạn, Hoàng Tanh, Phan Minh Tánh, Nguyễn Thị Tâm, Trần Trọng Tân, Nông Hồng Thái, Trần Thị Thanh Thanh, Tạ Hữu Thanh, Đỗ Quang Thắng, Vũ Thắng, Nguyễn Thị Thân, Đặng Văn Thân, Phạm Văn Thọ, Lê Phước Thọ, Hữu Thọ, Phan Thu, Đặng Quân Thuỵ, Phan Văn Tiệm, Nguyễn Trung Tín, Phạm Văn Trà, Hà Học Trạc, Lê Văn Triết, Nguyễn Đức Triều, Lê Xuân Trinh, Nguyễn Tấn Trịnh, Trương Vĩnh Trọng, Đỗ Quang Trung, Lê Văn Tu, Đào Duy Tùng, Lê Xuân Tùng, Nguyễn Văn Tư, Nguyễn Đình Tứ, Phan Ngọc Tường, Nguyễn Thị Hồng Vân, Bùi Thanh Vân, Đậu Ngọc Xuân, Nguyễn Trọng Xuyên, Lê Danh Xương.
Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) đã bầu Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 13 uỷ viên: Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, Đào Duy Tùng, Đoàn Khuê, Vũ Oanh, Lê Phước Thọ, Phan Văn Khải, Bùi Thiện Ngộ, Nông Đức Mạnh, Phạm Thế Duyệt, Nguyễn Đức Bình, Võ Trần Chí. Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.
Thành công của Đại hội đánh dấu bước trưởng thành mới của Đảng, cột mốc mới trong tiến trình cách mạng nước ta. Diễn văn bế mạc Đại hội của Tổng Bí thư Đỗ Mười đã nêu rõ:
"Kết quả nổi bật của Đại hội chúng ta là sự nhất trí trên tất cả các vấn đề lớn thuộc về quan điểm, đường lối có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh của đất nước. Đại hội là sản phẩm trí tuệ của toàn Đảng và của nhân dân trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những giá trị của loài người vào giai đoạn hiện nay của sự nghiệp cách mạng nước ta... Kết quả đó khẳng định trong đường lối của mình, Đảng ta và nhân dân ta quyết tâm không gì lay chuyển nổi đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn. Đó là con đường duy nhất đúng đắn. Kết quả đó khẳng định Đảng ta kiên trì và tích cực đẩy mạnh công cuộc đổi mới do chính bản thân Đảng khởi xướng theo những nguyên tắc đã được xác định... Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có nguyên tắc và có bước đi vững chắc, đó là mệnh lệnh của cuộc sống, là quá trình không thể đảo ngược.
Đại hội VII đã làm tròn được trách nhiệm trọng đại do toàn Đảng, toàn dân giao phó và sự chờ trông của bạn bè quốc tế. Đó là: "Đại hội của trí tuệ - đổi mới, dân chủ - kỷ cương - đoàn kết".
Từ sau Đại hội VII, tình hình quốc tế tiếp tục có những diễn biến nhanh chóng và phức tạp. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu lần lượt sụp đổ. Độc lập chủ quyền của một số quốc gia đang bị thách thức bởi chính sách cường quyền và áp đặt. Các thế lực thù địch ra sức hoạt động chống phá công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta phải trải qua những thử thách vô cùng gay go.
Trước thách thức và vận hội mới, Đảng Cộng sản Việt Nam và toàn dân ta đã tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng. Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã cụ thể hoá và phát triển đường lối Đại hội VII, giải quyết một loạt vấn đề cụ thể về những vấn đề đối nội và đối ngoại, phù hợp với tình hình đang diễn biến và thực tiễn cuộc sống.
Hội nghị lần thứ hai của Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ ngày 25-11 đến ngày 4-12-1991 đã bàn về vấn đề kinh tế, xác định quan điểm, chủ trương thực hiện Nghị quyết Đại hội VII và việc sửa đổi Hiến pháp 1980.
Hội nghị lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 18 đến ngày 29-6-1992 tại Hà Nội. Tổng Bí thư Đỗ Mười đã trình bày trước Hội nghị vấn đề Thời cuộc hiện nay và nhiệm vụ của chúng ta.
Hội nghị đã thảo luận ba vấn đề quan trọng:
- Tình hình thế giới và chính sách đối ngoại,
- Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia,
- Đổi mới và chỉnh đốn Đảng.
Kiểm điểm tình hình trong nước và thế giới, Hội nghị nêu rõ: "Một năm đã qua kể từ Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng, cách mạng nước ta tiếp tục phát triển, tình hình chính trị ổn định, sự nhất trí trong Đảng và trong nhân dân được tăng cường, tình hình kinh tế không bị đảo lộn, có mặt phát triển, có thêm những nguồn lực mới. Tình hình thế giới diễn biến phức tạp và có những thay đổi sâu sắc. Đất nước đứng trước những thuận lợi mới và những thách thức mới. Đảng phải có những quyết sách đúng đắn nhằm giữ vững ổn định chính trị, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế, chăm lo đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng an ninh, mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, đổi mới và chỉnh đốn Đảng, thắt chặt hơn nữa quan hệ giữa Đảng và nhân dân, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VII".
Công tác đối ngoại giữ vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Hội nghị xác định: "Nhiệm vụ đối ngoại bao trùm trong thời gian tới là giữ vững hoà bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội".
Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng: "Điều quyết định thành công của công cuộc đổi mới là do sức mạnh của toàn dân ta, của con người, ý chí, trí tuệ và tiềm lực của đất nước. Đồng thời... cũng hiểu rằng trong thời đại ngày nay, bất cứ nước nào, dù phát triển đến đâu cũng không tự khép kín được. Với điểm xuất phát rất thấp của nước ta, tranh thủ nguồn lực bên ngoài là rất quan trọng... Vì vậy, chúng ta chủ trương mở rộng, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ đối ngoại cả về chính trị, kinh tế, văn hoá và khoa học kỹ thuật, cả về Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức phi chính phủ, trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, bảo vệ và phát triển kinh tế, gìn giữ và phát huy những truyền thống và bản sắc tốt đẹp của nền văn hoá dân tộc".
Củng cố quốc phòng và giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, trong đó các lực lượng vũ trang bao gồm quân đội nhân dân và công an nhân dân là lực lượng nòng cốt. Hội nghị nêu rõ: "Phải phát huy cao độ chủ nghĩa yên nước, truyền thống cách mạng, đề cao cảnh giác, kiên quyết chống lại những âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hoà bình" và các hoạt động phá hoại khác của các thế lực thù địch, xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, xây dựng các lực lượng vũ trang trong sạch vững mạnh, giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, chăm lo tốt đời sống vật chất và tinh thần của lực lượng vũ trang".
Về đổi mới và chỉnh đốn Đảng, Hội nghị đã đánh giá qua mấy năm lãnh đạo tiến hành đổi mới, Đảng có bước tiến bộ và trưởng thành mới, nắm bắt được yêu cầu phát triển của đất nước và nguyện vọng của nhân dân, quyết tâm sửa chữa những khuyết điểm sai lầm trước đây, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn được nâng lên. Những thành tựu bước đầu của công cuộc đổi mới càng chứng tỏ đường lối của Đảng ta là đúng đắn, cán bộ, đảng viên và nhân dân ta đoàn kết phấn đấu vượt qua mọi khó khăn thử thách, thực hiện sáng tạo đường lối của Đảng. Song Đảng ta cũng bộc lộ những nhược điểm, có những khuyết điểm đang trở thành nguy cơ không thể xem thường. Nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới đòi hỏi Đảng phải khẩn trương tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Vì vậy, tự đổi mới, tự chỉnh đốn là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đối với vận mệnh của chế độ và của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị Trung ương đã xác định:
"Mục tiêu đổi mới và chỉnh đốn Đảng là nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phù hợp với yêu cầu khách quan của cách mạng nước ta trong tình hình mới, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, bảo đảm thực hiện có kết quả các nhiệm vụ chính trị do Đại hội VII đề ra, trong đó trọng tâm là phát triển kinh tế, làm cho dân giàu nước mạnh giữ vững ổn định chính trị".
Nguyên tắc tiến hành đổi mới và chỉnh đốn Đảng là phải quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, củng cố mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Hội nghị đã xác định cụ thể các yêu cầu và phương châm đổi mới, chỉnh đốn Đảng và các nội dung lớn: xây dựng Đảng về chính trị và tư tưởng, chỉnh đốn Đảng về tổ chức, tạo bước chuyển biến quan trọng về công tác cán bộ, đổi mới và tăng cường công tác vận động nhân dân, củng cố mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng...
Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 4 đến ngày 14-1-1993, đã thảo luận và ra nghị quyết về một số vấn đề có liên quan trực tiếp đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, chuẩn bị hành trang cho nhân dân ta, đặc biệt cho thế hệ trẻ vững bước tiến vào thế kỷ XXI. Đó là các Nghị quyết:
- Về một số nhiệm vụ văn hoá, văn nghệ những năm trước mắt.
- Về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
- Về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.
- Về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
- Về công tác thanh niên trong thời kỳ mới.
Qua các Nghị quyết trên cho chúng ta thấy quan điểm cách mạng và nhân văn của Đảng ta là "Tất cả là do con người, tất cả vì hạnh phúc con người, chúng ta coi con người là nhân tố quyết định, là động lực to lớn nhất, là chủ thể sáng tạo mọi nguồn của cải vật chất và tinh thần của xã hội; đồng thời, coi hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chúng ta".
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong những năm qua đã lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu và là khâu đột phá, đã đạt được những thành tựu to lớn. Song nhìn chung nông nghiệp và nông thôn còn nhiều yếu kém. Để tiếp tục thực hiện chủ trương đổi mới về nông nghiệp và nông thôn, Hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương họp từ ngày 3 đến ngày 10-6-1993, bàn sâu về chính sách đối với nông dân, nông nghiệp và nông thôn để đưa nông nghiệp và nông thôn tiến nhanh và vững chắc hơn.
Hội nghị đã thông qua Nghị quyết Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng nông nghiệp - nông thôn nước ta qua những năm đổi mới, Hội nghị đã quyết nghị về mục tiêu và quan điểm tiếp tục đổi mới và phát triển nông nghiệp, nông thôn, những phương hướng và giải pháp cụ thể.
Hội nghị lần thứ sáu của Trung ương họp từ ngày 24-11 đến ngày 1-12-1993 đã bàn việc chuẩn bị nội dung và nhân sự cho Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng. Hội nghị đã bầu bổ sung Lê Khả Phiêu, Nguyễn Mạnh Cầm, Đỗ Quang Thắng, Nguyễn Hà Phan vào Bộ Chính trị và cách chức uỷ viên Trung ương của Vũ Ngọc Hải.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 20 đến ngày 25-1-1994. Hội nghị có nhiệm vụ kiểm điểm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII và tổng kết một bước thực tiễn đổi mới từ Đại hội VI nhằm làm sáng tỏ thêm một số vấn đề trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, xác định những chủ trương và giải pháp lớn để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VII, đưa sự nghiệp cách mạng của nước ta tiếp tục tiến lên.
Từ sau Đại hội VII, mặc dù tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng và phức tạp, song Đảng và nhân dân Việt Nam ta vẫn kiên trì công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, mở rộng dân chủ, giữ vững ổn định chính trị, củng cố an ninh, quốc phòng, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại, từng bước phá thế bao vây (cấm vận). Chúng ta đã đạt được các thành tựu có ý nghĩa to lớn sau:
- Đã khắc phục được một bước rất quan trọng tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội.
- Tiếp tục giữ vững và củng cố sự ổn định chính trị.
- Quan hệ đối ngoại được mở rộng, uy tín và vị trí nước ta trên thế giới được nâng lên, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Song chúng ta còn nhiều mặt yếu kém và nhiều vấn đề mới nảy sinh.
Những thành tựu quan trọng đạt được "Đã và đang tạo ra những tiền đề đưa đất nước chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Những tiền đề ấy bao gồm một loạt nhân tố cả về thế và lực, cả về vật chất và tinh thần, về kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá, trong nước và ngoài nước".
Trên cơ sở phân tích thành tựu đã đạt được và những mặt còn tồn tại, Hội nghị đã khẳng định đường lối, chủ trương chính sách lớn của Đảng về đổi mới là đúng đắn, bước đi là thích hợp. Các bài học kinh nghiệm bước đầu về đổi mới mà Đại hội VII nêu lên cần được tiếp tục vận dụng trong thực tế. Đổi mới là sự nghiệp khó khăn, chưa có tiền lệ, song Đảng ta đã mạnh dạn tìm tòi và giành thắng lợi quan trọng. Điều cơ bản có tính chất quyết định nhất là Đảng ta đã giữ vững vai trò lãnh đạo duy nhất, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo, có đường lối, chính sách phù hợp với quy luật và thực tiễn Việt Nam, phát huy được sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, mở rộng hợp tác quốc tế. Phải không ngừng thông qua tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận mà từng bước hình dung ngày càng sáng tỏ về chủ nghĩa xã hội ở nước ta, làm rõ những mô hình cụ thể trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá...
Hội nghị nêu rõ, trước mắt nhân dân ta là những thách thức lớn và những cơ hội lớn.
Những thách thức lớn là: Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất phát thấp, nhịp độ tăng trưởng chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc phục được những lệch lạc trong chủ trương, chính sách và chỉ đạo thực hiện; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ "Diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch. Các nguy cơ đó có liên quan mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau.
Những cơ hội lớn là: Đảng ta có đường lối đúng đắn, đoàn kết nhất trí, nhân dân ta cần cù và thông minh, giàu lòng yêu nước, có bản lĩnh và ý chí cách mạng kiên cường, tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng, các lực lượng vũ trang tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta, những thành tựu của công cuộc đổi mới đang tạo ra thế và lực mới, sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật, xu thế mở rộng quan hệ hợp tác phát triển trên thế giới và trong khu vực đem lại cho chúng ta khả năng thêm những nguồn lực quan trọng. Hơn hai năm tổ chức thực hiện mục tiêu tổng quát của Đại hội VII đề ra, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhất là về kinh tế. Trong những năm còn lại của nhiệm kỳ, phải động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đồng tâm nhất trí, nỗ lực vượt bậc, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, mở rộng hợp tác quốc tế, thực hành cần kiệm liêm chính, ra sức khai thác thuận lợi, nắm bắt thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thử thách, thực hiện thắng lợi mục tiêu tổng quát mà Đại hội VII đã đề ra, thúc đẩy nhanh hơn nhịp độ thực hiện những mục tiêu của chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đó, Hội nghị đã nêu lên những mục tiêu chủ yếu sau:
1. Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2. Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, tạo động lực và môi trường thuận lợi hơn nữa cho các thành phần kinh tế, các loại doanh nghiệp phát triển nhanh và có hiệu quả cao.
3. Xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
4. Chăm lo các vấn đề văn hoá, xã hội.
5. Tăng cường quốc phòng và an ninh.
6. Tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại.
7. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
8. Đổi mới và chỉnh đốn Đảng, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Về tổ chức, Hội nghị quyết định bổ sung 20 uỷ viên Trung ương để thay thế cho các đồng chí vì lý do sức khoẻ đã tự nguyện rút lui và các đồng chí bị kỷ luật. Đào Trọng Lịch, Phan Diễn, Sôlâytăng, Bùi Quang Huy, Lư Văn Điền, Hồ Đức Việt, Lê Mai, Nguyễn Thế Trị, Đặng Thành Học, Hoàng Thừa, Trương Công Thận, Trần Văn Vụ, Đinh Trung, Nguyễn Phú Trọng, Hà Mạnh Trí, Lê Thanh Đạo, Tô Xuân Toàn, Thái Phụng Nê, Võ Văn Cương, Hoàng Văn Nghiên đã được bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương. Để thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội VII và Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng, bảo đảm sự phát triển đúng hướng, phải ra sức xây dựng Đảng và bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, hiệu lực quản lý điều hành.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động cao. Đó là quá trình lâu dài. Để kịp triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ, Hội nghị lần thứ bảy của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 25 đến ngày 30-7-1994, đã tập trung bàn định. Chủ trương, chính sách phát triển công nghiệp, công nghệ và xây dựng giai cấp công nhân, nhằm đẩy tới một bước công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Hội nghị đã nhất trí thông qua nghị quyết: Phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới.
Trên cơ sở phân tích tình hình công nghiệp, công nghệ và giai cấp công nhân trong mấy chục năm qua, tình hình thuận lợi và khó khăn trước mắt, Hội nghị đã xác định mục tiêu và quan điểm sau:
"Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Từ nay đến năm 2000, việc đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải nhằm đạt và vượt các mục tiêu đã xác định trong chiến lược kinh tế - xã hội (1991-2000) ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng, an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI".
Quan điểm:
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ với nước ngoài, kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh. Xây dựng nền kinh tế mở, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo, được vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
- Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
- Khoa học, công nghệ là nền tảng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định.
- Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, thu hồi vốn nhanh, đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả. Tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm, đồng thời quan tâm đáp ứng những nhu cầu phát triển thiết yếu của mọi vùng trong nước, có chính sách hỗ trợ những vùng khó khăn.
Giai cấp công nhân thông qua đảng tiên phong của mình thực hiện sứ mệnh lãnh đạo sự nghiệp cách mạng và công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy "Cần xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, tư tưởng, có trình độ học vấn và tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình".
Hội nghị cũng quyết định phải nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và thực hiện quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong sự nghiệp phát triển công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
"Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải có trí tuệ cao, có trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại, trên tất cả các lĩnh vực khoa học quản lý, khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và công nghệ. Vì vậy, cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức Nhà nước nói chung, cán bộ lãnh đạo nói riêng, trước hết là các đồng chí uỷ viên Trung ương, phải ra sức học tập, nâng cao trình độ mọi mặt. Có trình độ, có kiến thức mới nắm bắt được thời cơ, thực hiện được những nhiệm vụ khó khăn phức tạp trong hoàn cảnh mới. Cán bộ lãnh đạo không có kiến thức, thiếu trình độ hiểu biết sẽ trở thành lực cản của sự phát triển.
"Học, học nữa, học mãi", học trong nhà trường, học trong thực tiễn và tự học, đó là khẩu hiệu hành động của chúng ta để lãnh đạo thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước".
Từ ngày 16 đến ngày 23-1-1995, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) đã họp Hội nghị lần thứ tám. Hội nghị đã thảo luận và ra Nghị quyết về việc Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam - cải cách một bước nền hành chính nhà nước.
Hội nghị nhận định rằng công cuộc đổi mới những năm qua được tiến hành toàn diện, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời đổi mới hệ thống chính trị từng bước tích cực, vững chắc. Tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta thời gian qua có những chuyển biến tích cực và đã được đổi mới một bước, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có tiến bộ. Tuy nhiên, hoạt động của Nhà nước ta còn những khuyết điểm và yếu kém: Hệ thống pháp luật chưa tạo đủ khuôn khổ pháp lý cần thiết, việc thi hành pháp luật chưa nghiêm; tổ chức bộ máy Nhà nước cồng kềnh, hoạt động có mặt kém hiệu quả; nạn quan liêu, lãng phí và tham nhũng nghiêm trọng; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ còn yếu; sự lãnh đạo của Đảng chưa được tăng cường bảo đảm cho việc kiện toàn và phát huy hiệu lực của bộ máy nhà nước.
Tình hình trên đây cùng với yêu cầu đặt ra cho đất nước trong thời kỳ phát triển mới, đòi hỏi phải ra sức xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước vững mạnh, trong sạch, có hiệu lực và hiệu quả. Hội nghị Trung ương nhấn mạnh rằng, trong quá trình xây dựng và kiện toàn Nhà nước, phải quán triệt những quan điểm cơ bản sau đây:
Một là, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội; chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: Lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Ba là, quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Tăng cường sự lãnh đạo và điều hành tập trung thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy trách nhiệm và tính chủ động, năng động, sáng tạo của từng địa phương, từng cơ sở, từng tổ chức, từng cá nhân và toàn hệ thống.
Bốn là, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội, kết hợp biện pháp hành chính với giáo dục tư tưởng, nâng cao dân trí, kết hợp sức mạnh của pháp luật với sức mạnh của quần chúng.
Năm là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Hội nghị Trung ương cho rằng, kiện toàn nhà nước theo phương hướng nói trên là một quá trình tương đối lâu dài, phải được tiến hành với những bước đi tích cực, vững chắc, đặt trong tổng thể đổi mới hệ thống chính trị, gắn chặt với đổi mới và chỉnh đốn Đảng.
Trong thời gian tới, tập trung sức thực hiện một số chủ trương, nhiệm vụ quan trọng sau đây:
- Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội.
- Cải cách một bước nền hành chính nhà nước.
- Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Trong nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước phải đặt trọng tâm vào cải cách nền hành chính nhà nước. Những năm trước mắt cần tập trung làm tốt ba việc sau đây:
- Cải cách thể chế của nền hành chính.
- Chấn chỉnh tổ chức, bộ máy và quy chế hoạt động của hệ thống hành chính.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.
Đảng ta khẳng định công tác tư tưởng - lý luận là của toàn Đảng và luôn luôn quan trọng, trong thời điểm hiện nay càng quan trọng. Hội nghị lần thứ tám cho rằng hơn lúc nào hết, công tác tư tưởng - lý luận lúc này phải đáp ứng những đòi hỏi mà thực tiễn đất nước đang đặt ra là tăng cường sự nhất trí tư tưởng trong Đảng, sự thống nhất về chính trị và tinh thần trong nhân dân, nâng cao ý chí phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đấu tranh chống diễn biến hoà bình trong lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, giữ vững trận địa tư tưởng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng của nhân dân; cung cấp những luận cứ khoa học cho việc cụ thể hoá và phát triển đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ mới, góp phần xây dựng lý luận về mô hình phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm của dân tộc và của thế giới ngày nay.
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng hoàn toàn nhất trí và thông qua Nghị quyết về Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam - cải cách một bước nền hành chính nhà nước; giao Bộ Chính trị về: Một số định hướng lớn về công tác tư tưởng - lý luận trong tình hình hiện nay.
Giữa lúc nhân dân ta thực hiện thành công nhiều nhiệm vụ kinh tế xã hội quan trọng của kế hoạch nhà nước năm 1995, năm bản lề mở đường cho việc chuyển sang kế hoạch 5 năm tiếp theo, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã họp từ ngày 6 đến ngày 14-11-1995 tại Hà Nội để thảo luận và thông qua các dự thảo báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương chuẩn bị trình Đại hội VIII của Đảng, bao gồm: Báo cáo Chính trị; Báo cáo phương hướng nhiệm vụ kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm 1996-2000; Báo cáo về bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng và Điều lệ Đảng sửa đổi.
Đánh giá mười năm đổi mới vừa qua, Hội nghị Trung ương nhận định:
"- Công cuộc đổi mới mười năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ của Đại hội VII đề ra được hoàn thành về cơ bản.
- Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa được củng cố vững chắc.
- Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã được hoàn thành về cơ bản; nước ta chuyển sang một thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn.
Những thành tựu đạt được là kết quả của cả một quá trình tìm tòi, đổi mới, lao động và phấn đấu gian khổ của Đảng ta và nhân dân ta từ nhiều năm nay, cùng với sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế".
Từ thực tiễn của quá trình đổi mới, Hội nghị Trung ương đã rút ra sáu bài học chủ yếu sau:
1- Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
2- Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới hệ thống chính trị và đổi mới kinh tế, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với việc giải quyết các vấn đề xã hội;
3- Đổi mới kinh tế, coi kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước;
4- Mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần tự lực tự cường và sức mạnh của toàn thể dân tộc;
5- Tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới đối với sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân ta, thực hiện chính sách đối ngoại, độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá đa phương hoá;
6- Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
Những thành tựu của công cuộc đổi mới trong 10 năm qua đã và đang tạo ra thế và lực mới để cho chúng ta bước vào một thời kỳ phát triển mới. Song bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (1-1994) của Đảng đã nêu lên cho đến nay vẫn còn là những thách thức.
Xuất phát từ tình hình đã nêu trên và căn cứ vào Cương lĩnh của Đại hội VII, Hội nghị Trung ương đã xác định vẫn phải tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, phấn đấu chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Từ nay đến năm 2020, chúng ta phải phấn đấu để biến nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Giai đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới. Hội nghị Trung ương nêu rõ:
"Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, thúc đẩy công cuộc đổi mới phát triển một cách toàn diện và đồng bộ, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000: tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội và an ninh, quốc phòng, vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích luỹ nội bộ, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau ".
Sự lãnh đạo và hoạt động của Đảng là một nhân tố quyết định tạo ra những thành tựu mới. Và chính trong quá trình đổi mới Đảng ngày càng trưởng thành, nhận rõ hơn những mặt yếu kém và khuyết điểm của mình để có biện pháp khắc phục. Vì vậy, Hội nghị Trung ương đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề Đảng và công tác xây dựng Đảng.
Hội nghị Trung ương nêu rõ:
"Để xây dựng Đảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới, phải chú trọng giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng - người đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Phải nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ và phẩm chất cách mạng; củng cố Đảng về mặt tổ chức, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực; nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng".
Hội nghị đã ra Nghị quyết uỷ nhiệm Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉnh lý dự thảo các văn kiện, sau đó đưa ra thảo luận thật sự dân chủ để phát huy trí tuệ và ý chí của toàn Đảng, toàn dân. Tổng Bí thư Đỗ Mười nhấn mạnh: "Cùng với cuộc thảo luận trong Đảng, phải thông qua Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các tổ chức xã hội để thu thập ý kiến rộng rãi của các tầng lớp nhân dân đóng góp vào các dự thảo văn kiện, làm cho việc chuẩn bị Đại hội VIII không chỉ là việc của Đảng mà còn là mối quan tâm thiết thân của mọi người, để Đại hội VIII trở thành ngày hội của toàn Đảng, toàn dân".
Đại hội VIII của Đảng sắp họp là một Đại hội có ý nghĩa lịch sử đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Vì vậy, chuẩn bị thật tốt cho Đại hội là việc rất quan trọng.
Phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ chín của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 14-11-1995, Tổng Bí thư Đỗ Mười đã nhấn mạnh: "Trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh kế thừa, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta được hun đúc từ bốn ngàn năm lịch sử và tiếp thu tinh hoa của nhân loại, chúng ta tiếp tục khơi dậy tinh thần độc lập, tự chủ, ý chí tự lực, tự cường, năng lực sáng tạo và trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của nhiệm kỳ VII và tích cực đóng góp vào thành công của Đại hội VIII, tạo nên sự nhất trí cao về chính trị và tinh thần của toàn xã hội, ra sức phấn đấu đưa nước ta quá độ vững chắc lên chủ nghĩa xã hội"
Đường dẫn bài viết: https://congthuong.vn/nien-bieu-toan-khoa-dai-hoi-dang-lan-thu-vii-232143.html
In bài viếtBản quyền thuộc về "Báo Công Thương Điện Tử", chỉ được dẫn nguồn khi có thỏa thuận bằng văn bản.