Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương

.

I- Tên: Đảng Cộng sản Đông Dương (phân bộ của Quốc tế Cộng sản).

II- Tôn chỉ của Đảng

1. Đảng Cộng sản Đông Dương, đội tiền phong duy nhất của vô sản giai cấp, tranh đấu để thu phục đa số quần chúng vô sản, lãnh đạo nông dân lao động và tất thảy quần chúng lao động khác, chỉ huy họ làm cách mạng phản đế và điền địa (mưu cho Đông Dương được hoàn toàn độc lập, dân cày được ruộng đất, các dân tộc thiểu số được giải phóng), lập chính quyền Xôviết công nông binh, đặng dự bị điều kiện tranh đấu thực hiện vô sản chuyên chính, kiến thiết xã hội chủ nghĩa là thời kỳ đầu của cộng sản chủ nghĩa theo chương trình của Quốc tế Cộng sản.

Đảng Cộng sản là hình thức tối cao của vô sản, là bộ phận giác ngộ nhất, cương quyết tranh đấu nhất của giai cấp vô sản, có kỷ luật sắt, thống nhất về tổ chức, tư tưởng và hành động, tuyệt đối không thoả hiệp với các xu hướng bè phái, các mầm cải lương, quốc gia eo hẹp, biệt phái và các xu hướng trái với chương trình của Đảng và của Quốc tế Cộng sản.

III- Đảng viên

2. Điều kiện vào Đảng: vô luận nam nữ, vô luận người dân tộc nào, hễ ai:

a) Có từ 23 tuổi sắp lên,

b) Công nhận Chương trình của Quốc tế Cộng sản, Chương trình hành động và Điều lệ của Đảng,

c) Phục tùng và thi hành hết thảy các án nghị quyết của Quốc tế Cộng sản và của Đảng,

d) Hoạt động trong một tổ chức cơ sở của Đảng,

e) Thường lệ nộp đảng phí, có người giới thiệu thì được vào Đảng.

3. Cách giới thiệu:

a) Do cá nhân vào Đảng.

b) Khi đảng viên mới vào Đảng thì phải do toàn chi bộ hội nghị nhận và cơ quan thượng cấp kế đó chuẩn y.

4. Điều kiện vào Đảng:

a) Công nhân thành thị và thôn quê muốn vào Đảng thì phải có hai đảng viên giới thiệu, do chi bộ công nhận và cơ quan thượng cấp kế đó chuẩn y cho.

b) Nông dân lao động, tiểu thủ công phải có hai đảng viên có chân đảng viên chí ít là ba tháng giới thiệu, chi bộ công nhận, thượng cấp kế đó chuẩn y.

c) Trí thức, tiểu thương gia thì phải có hai đảng viên có chân Đảng chí ít là sáu tháng giới thiệu, chi bộ công nhận và cơ quan thượng cấp kế đó chuẩn y.

d) Các đảng viên thường của các đảng phái khác thì phải có ba đảng viên có chân Đảng chí ít sáu tháng giới thiệu, chi bộ công nhận và tỉnh uỷ chuẩn y.

đ) Người phụ trách hay là các bộ phận của các đảng khác, đoàn thể chính trị khác muốn vào Đảng Cộng sản thì phải do Trung ương Đảng Cộng sản chuẩn y, sau khi tẩy sạch những phần tử không triệt để cộng sản.

e) Đoàn viên của Thanh niên Cộng sản Đoàn muốn vào Đảng Cộng sản thì do chi bộ đoàn giới thiệu cho chi bộ đảng công nhận.

g) Các đảng viên phải kinh qua một thời kỳ dự bị: công nhân hai tháng, nông dân lao động và dân nghèo thành thị bốn tháng, trí thức và các phần tử khác sáu tháng, những người cựu phụ trách trong các đảng khác: một năm. Đảng viên dự bị có quyền thảo luận, đề nghị, không có quyền biểu quyết và không được cử vào các cơ quan chỉ đạo, các công tác và các nhiệm vụ khác thì đảng viên dự bị và đảng viên chánh thức đều như nhau. Hết thời kỳ dự bị mà làm hết trách nhiệm thì do chi bộ tuyên bố cho làm đảng viên chánh thức; nhưng chưa đủ điều kiện để làm chánh thức đảng viên thì được diện trường kỳ hạn dự bị.

h) Người giới thiệu phải biết chỗ ở và nơi làm của người mình giới thiệu; nếu giới thiệu không sát thực thì người giới thiệu phải chịu trách nhiệm, phải bị trừng phạt cho tới khai trừ ra Đảng.

Chú ý:

a) Binh lính vào Đảng tuỳ theo địa vị xã hội mà định điều kiện giới thiệu.

b) Trong hoàn cảnh bí mật và gặp lúc tình hình đặc biệt, các thượng cấp uỷ viên có quyền kiếm thêm đảng viên mới, không cần kinh qua chi bộ.

c) Trước lúc giới thiệu một người vào Đảng, cần phải điều tra người ấy rất cẩn thận và giao cho họ công tác làm thử.

5. Nhiệm vụ của đảng viên:

a) Theo kỷ luật, giữ bí mật, hăng hái tham gia chánh trị sanh hoạt trong Đảng và trong xứ; thực hành các nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, của Đảng và các cơ quan chỉ đạo của Đảng.

b) Phải tự nâng cao trình độ chánh trị của mình, phải học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và hết thảy các nghị quyết quan trọng của Đảng và các vấn đề chánh trị và tổ chức, phải giải thích cho quần chúng không có chân Đảng những nghị quyết của Đảng và Quốc tế Cộng sản.

c) Mỗi đảng viên bắt buộc phải vào các đoàn thể quần chúng dưới quyền chỉ đạo của Đảng để tăng gia ảnh hưởng chánh trị và thế lực tổ chức của Đảng trong quần chúng.

d) Phải vào trong các tổ chức quần chúng do bọn quốc gia cải lương, bọn phản động tổ chức và chỉ huy để hằng ngày tranh đấu về đường chính trị và tổ chức, để đánh tan ảnh hưởng của bọn lãnh tụ ấy, để cướp lấy quần chúng lao động trong đó sang phe mình.

đ) Phải luôn luôn tham gia tổ chức và lãnh đạo quần chúng ra tranh đấu, bênh vực quyền lợi cho họ, hăng hái tuyên truyền cổ động, phổ biến sách lược cách mạng phản đế và điền địa và lý thuyết cộng sản chủ nghĩa trong quần chúng lao động.

e) Phải tổ chức thêm đảng viên mới.

f) Đảng viên chỗ này đi chỗ khác phải có cơ quan chỉ đạo địa phương mình giới thiệu sang đảng bộ mình mới tới và phải vào trong đảng bộ đó mà làm việc.

g) Đảng viên nước này qua nước khác thì phải do Trung ương Đảng xứ mình quyết định và giới thiệu cho Trung ương Đảng nước khác mà làm việc.

Những hạng người dưới này thì cần phải đuổi ra Đảng:

a) Ra mặt hay giấu mặt cố ý giúp cho bọn quốc gia cải lương, bọn tờrốtkít và các đoàn thể chánh trị phản động khác mà Quốc tế Cộng sản và Đảng công nhận là nghịch thù với chủ nghĩa cộng sản, là những người phản đối và phá hoại cuộc cách mạng Đông Dương.

b) Phá hoại kỷ luật sắt của Đảng (vô luận hình thức nào) có thể phá hoại Đảng và bắt bớ quần chúng.

c) Lính kín, khiêu khích, cách mạng nửa mùa, phản bội, đầu cơ, truỵ lạc và những người hành động không chính đáng làm hại đến danh nghĩa của Đảng.

IV- Tổ chức (cấu tạo) Đảng

6. Đảng Cộng sản Đông Dương là một tổ chức hoàn toàn bí mật đối với quân thù, nhiệm vụ các tổ chức bí mật của Đảng lấy sự phát triển công việc trong quần chúng làm trung tâm, liên lạc công tác bí mật, bán công khai và công khai, bảo chứng quyền lãnh đạo của Đảng trong các cuộc cách mạng vận động của quần chúng.

7. Nguyên tắc tổ chức của Đảng là dân chủ tập trung, nghĩa là:

a) Các cơ quan chỉ đạo của Đảng từ thượng cấp cho tới hạ cấp đều do Đại hội đại biểu hội nghị và toàn thể hội nghị cấp bộ ấy cử ra.

b) Các cơ quan chỉ đạo của Đảng phải thường lệ báo cáo công tác của mình cho các đảng bộ và các cơ quan thượng cấp.

c) Các đảng viên có quyền thảo luận các vấn đề của Đảng trong đảng bộ mình trước khi những vấn đề ấy chưa giải quyết. Nhưng sau khi có nghị quyết rồi thì thiểu số phục tùng đa số; các nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, của Đảng hoặc cơ quan chỉ đạo thì các đảng bộ hạ cấp nhất định phải chấp hành, dầu có một bộ phận đảng viên hay một vài địa phương không bằng lòng với các nghị quyết ấy thì có quyền khiếu nại với cơ quan thượng cấp cho tới Quốc tế Cộng sản, nhưng trong lúc cơ quan thượng cấp chưa quyết định thì cứ vẫn phải thi hành như cũ.

8. Sự kiến thiết của Đảng lấy chỗ kỹ nghệ và địa vực làm căn bản. Đảng bộ bao gồm nhiều địa hạt là cao hơn các đảng bộ trong địa hạt.

9. Tất hết thảy các đảng bộ được tự quyết định lấy những vấn đề địa phương của mình, nhưng những vấn đề đó quyết không thể được xung đột với các nghị quyết của Quốc tế Cộng sản và các cơ quan thượng cấp của Đảng.

10. Cơ quan cao nhất trong các cấp đảng bộ là toàn thể hội nghị, đại biểu hội nghị, đại biểu Đại hội (thường hay bất thường) của các cấp bộ ấy, cử ra ban uỷ viên của cấp bộ mình, ban này là cơ quan chấp hành và chỉ huy công việc hằng ngày của đảng bộ.

Chú ý:

a) Trong điều kiện công tác bí mật, nếu được các cơ quan thượng cấp của Đảng đồng ý thì các ban uỷ viên hạ cấp có thể bị chỉ định, nghĩa là không do đại biểu hội nghị của đảng bộ tương đương cử ra, hay là có thể liên hiệp sự tuyển cử với sự chỉ định, nghĩa là một bộ phận uỷ viên do đại biểu hội nghị cử ra, còn một bộ phận nữa thì chỉ định ra.

b) Vì nguyên nhân công tác bí mật, nên ban uỷ viên có thể không do đại biểu hội nghị cử ra, mà chỉ do thượng cấp cơ quan chọn những phần tử hăng hái hơn hết trong chi bộ, trong các đảng đoàn của Công hội, của các đoàn thể quần chúng mà thiết lập ra.

11. Hệ thống tổ chức của Đảng như sau:

a) Toàn Đông Dương đại biểu Đại hội: trung ương;

b) Toàn xứ đại biểu hội nghị: xứ uỷ;

c) Tỉnh, thành lớn, đặc biệt bộ đại biểu hội nghị: tỉnh, thành lớn, đặc uỷ;

d) Phủ, huyện, châu, quận, thành, khu đại biểu hội nghị: phủ, huyện, châu, quận, thành, khu uỷ;

đ) Tổng đại biểu hội nghị: tổng uỷ;

e) Chi bộ hội nghị: thư ký, ban cán sự chỉ huy.

Chú ý:

a) Như trong xứ nào có nhiều tỉnh bộ, xứ uỷ chỉ huy công tác không xiết và không lanh lẹ thì xứ uỷ có thể thương lượng với Ban Trung ương mà lập ra ban cán sự chỉ huy ba, bốn tỉnh, thành, đặc uỷ. Các ban này là các đại biểu đoàn của xứ uỷ, các ban cán sự ấy chỉ phụ trách trước xứ uỷ và xứ đại biểu hội nghị, các uỷ viên trong các ban ấy hoàn toàn do xứ uỷ chỉ định, chớ không phải do các tỉnh, thành, đặc biệt bộ cử ra.

b) Xứ nào chưa lập được xứ uỷ thì Trung ương trực tiếp chỉ huy các đảng bộ trong xứ ấy, Trung ương có thể uỷ quyền cho ban uỷ viên của đảng bộ ở kinh thành (như Hà Nội, Huế, Sài Gòn, Nam Vang, Viêng Chăn) hay là một tỉnh uỷ nào mạnh nhất tạm thời phụ trách chỉ huy các đảng bộ toàn xứ.

c) Tỉnh nào chưa có tỉnh uỷ thì xứ uỷ trực tiếp chỉ huy các đảng bộ trong tỉnh ấy; xứ uỷ có thể uỷ quyền cho thành uỷ (ở tỉnh lỵ) tạm thời phụ trách chỉ huy công tác khắp toàn tỉnh, như tỉnh uỷ và thành uỷ mà chưa thành lập, và xứ uỷ lại không thể trực tiếp chỉ huy được mau và sát, thì xứ uỷ có thể tạm thời giao các đảng bộ trong tỉnh ấy cho một tỉnh uỷ gần đấy chỉ huy.

d) Huyện, châu, quận, phủ, khu mà chưa có huyện, châu, quận, phủ, khu uỷ thì tỉnh uỷ trực tiếp chỉ đạo các đảng bộ trong huyện, phủ, châu, quận, khu ấy; tỉnh uỷ có thể tạm thời giao quyền cho huyện uỷ gần đấy hay là một tổng uỷ nào mạnh nhất chỉ huy trong huyện ấy. Tổng nào chưa có tổng uỷ thì huyện uỷ trực tiếp chỉ huy các chi bộ trong tổng ấy, hay huyện uỷ có thể uỷ quyền cho ban cán sự của chi bộ làng nào mạnh nhất trong tổng hay cho một tổng uỷ gần đó tạm thời chỉ đạo các chi bộ trong tổng ấy.

e) Tỉnh nào, huyện nào, tổng nào chỉ mới có một chi bộ thì cơ quan thượng cấp có thể cho ban cán sự chi bộ ấy lấy danh nghĩa lâm thời, tỉnh, huyện hay tổng uỷ để phụ trách phát triển công tác khắp trong tỉnh, huyện, tổng ấy.

A- Chi bộ

12. Căn bản về đường tổ chức của Đảng là chi bộ sản nghiệp (nhà máy, mỏ, đồn điền, công xưởng, công sở, trại lính, trường học, v.v.). Tất cả đảng viên làm trong một sản nghiệp đều phải vào chi bộ đó. Các đảng viên khác như thủ công, trí thức, tiểu thương gia, người đi ở, v.v. thì lấy chỗ làm của họ làm gốc mà tổ chức ra chi bộ đường phố. Các làng (xã) thì tổ chức ra chi bộ làng (xã).

13. Chỗ nào có ba đảng viên trở lên mà được cơ quan thượng cấp kế đó y cho thì được tổ chức ra chi bộ. Nơi nào có một hai đảng viên thì những đảng viên ấy phải vào chi bộ gần đó, hoặc cùng với đảng viên trong một, hai sở gần đó tổ chức ra chi bộ.

14. Có chỉ thị đặc biệt của Trung ương thì được lập ra chi bộ đặc biệt.

Chú ý:

a) Như có một nhóm thợ, nông dân lao động, hay là quần chúng lao khổ khác, có giai cấp giác ngộ, tự sáng kiến họ tổ chức ra chi bộ và bắt đầu làm việc cộng sản trong quần chúng, nếu chi bộ ấy muốn vào Đảng thì thành hay huyện uỷ chiếu theo Điều lệ của Đảng mà điều tra họ cả mọi phương diện, quả họ chân thật với công tác cách mạng thì thành hay huyện uỷ có thể nhận họ vào Đảng.

b) Mỗi sản nghiệp, mỗi làng (xã) thì tổ chức một chi bộ. Chi bộ nào vừa vừa, có hơn bảy đồng chí thì chia ra thành phân bộ (từ trại, từ ấp); chi bộ nào lớn thì phân bộ chia ra từng tiểu tổ (từ ba người tới bảy người).

15. Nhiệm vụ của chi bộ là:

a) Phải hăng hái thảo luận Chương trình hành động, Điều lệ, các nghị quyết chung về đường chính trị và các tài liệu tuyên truyền của Đảng.

b) Phải chính trị huấn luyện cho đảng viên mới và quần chúng cảm tình để nâng cao trình độ chính trị của họ.

c) Phải xuất bản báo sản nghiệp.

d) Phải lấy lực lượng đảng mà tham gia và tổ chức ra các cuộc kinh tế, chánh trị tranh đấu của quần chúng để thực hiện nghị quyết của Đảng, để giữ quyền lãnh đạo cho vô sản giai cấp.

đ) Phải giúp khu, thành hay tổng uỷ trong công việc tổ chức.

e) Phải định ra kế hoạch công tác hằng ngày cho toàn chi bộ, cho đảng viên và đảng đoàn.

16. Chi bộ hội nghị:

a) Toàn thể hội nghị của tiểu tổ, phân bộ nhỏ, của chi bộ nhỏ, mỗi tuần khai hội một lần, đại biểu hội nghị của chi bộ lớn, chi bộ vừa vừa của phân bộ lớn (có tiểu tổ) chí ít một tháng khai hội một lần, nghe báo cáo của các thư ký hay ban cán sự (hay ban uỷ viên), thảo luận các chỉ thị của thượng cấp, định kế hoạch làm việc hằng ngày của tiểu tổ, phân bộ, chi bộ, phân phối công tác cho các đảng viên, hoặc cử đại biểu đi khai Đại hội đại biểu thượng cấp.

17. Chi bộ lớn cử ra ban uỷ viên từ ba người tới năm người (gồm cả người chánh thức và dự bị thư ký) những phân bộ có tiểu tổ và những chi bộ vừa vừa cần cử ra một ban cán sự từ ba đến năm người. Những chi bộ nhỏ, những phân bộ nhỏ và những tiểu tổ chỉ cần cử ra một người chánh thức thư ký và một người dự bị thư ký. Những người chánh thức và dự bị thư ký phải do thượng cấp cơ quan kế đó y cho. Các ban uỷ viên cán sự của các chi bộ, phân bộ lớn và những người chánh thức và dự bị thư ký của chi bộ nhỏ, phân bộ nhỏ, tiểu tổ, cứ ba tháng cử lại một lần.

18. Cách phân phối công tác trong tiểu tổ, phân bộ, chi bộ hay ban cán sự (hoặc ban uỷ viên) như:

a) Góp đảng phí,

b) In và phát báo,

c) Chỉ huy đảng đoàn trong các đoàn thể quần chúng.

B- Tổng bộ ở nhà quê

19. Cơ quan cao nhất trong tổng bộ là tổng bộ đại biểu hội nghị cứ ba tháng khai hội một lần, nghe và chuẩn y báo cáo của tổng uỷ và các chi bộ làng, định kế hoạch làm việc, cử tổng uỷ, cử đại biểu đi tham gia đại biểu hội nghị ở thượng cấp (huyện, phủ, v.v.).

20. Tổng uỷ chỉ đạo công tác hằng ngày của tổng mình, muốn cho công tác hằng ngày được thực hiện, cử ra một người chánh thức và dự bị thư ký, chánh thức và dự bị thư ký phải do huyện uỷ chuẩn y, tổng uỷ mỗi tuần khai hội một lần, ba tháng cử lại tổng uỷ.

C- Huyện, phủ, châu, quận, khu bộ

21. Cơ quan cao nhất của huyện, phủ, châu, quận, khu bộ (ở thành thị, đồn điền hay mỏ quan trọng như một huyện) là phủ, huyện, châu, quận, đại biểu hội nghị, cứ sáu tháng khai hội một lần, nghe và chuẩn y báo cáo huyện, phủ, châu, quận, khu uỷ và của các tổng bộ, cử lại ban huyện, phủ, châu, quận, khu uỷ; cử đại biểu đi khai tỉnh, thành lớn, đặc biệt bộ đại biểu hội nghị.

22. Huyện, phủ, châu, quận, khu uỷ khi cần thiết phải cử ra Ban Thường vụ. Những phủ, huyện, châu, quận, khu uỷ không có thường vụ thì khai hội mỗi tuần một lần, có thường vụ thì một tháng khai hội một lần, trong Ban Thường vụ cử ra một người chính thức và dự bị thư ký để lãnh đạo công tác hằng ngày trong huyện uỷ. Người chánh thức và dự bị thư ký phải do tỉnh, thành lớn hay đặc uỷ chuẩn y.

D- Tỉnh, thành lớn, đặc biệt bộ

23. Cơ quan cao nhất của tỉnh, thành lớn (Hải Phòng, Hà Nội, Vinh - Bến Thuỷ, Huế, Tuaran1), Sài Gòn, Chợ Lớn, Nam Vang, Viêng Chăn), đặc biệt bộ (mỏ, đồn điền lớn quan trọng như một tỉnh) thường sáu tháng khai đại biểu hội nghị một lần; nghe và chuẩn y báo cáo của tỉnh, thành lớn, đặc uỷ và các phủ, huyện, châu, quận, khu bộ; định kế hoạch công tác tấn hành trong phạm vi mình; cử lại tỉnh, thành lớn, đặc uỷ; cử đại biểu đi khai đại biểu hội nghị ở thượng cấp.

24. Tỉnh, thành, đặc uỷ nếu cần thiết phải cử ra thường vụ uỷ viên để làm công việc hằng ngày, trong Ban Thường vụ phải cử ra một người chánh thức và một người dự bị thư ký để lãnh đạo công tác hằng ngày trong tỉnh, thành lớn, đặc uỷ.

25. Người thư ký và chủ nhiệm bộ tuyên truyền của tỉnh, thành lớn, đặc biệt bộ phải do xứ uỷ chuẩn y.

26. Trong khoảng hai lần đại biểu hội nghị thì tỉnh, thành lớn, đặc uỷ là cơ quan cao nhất trong đảng bộ mình, thay mặt cho các đảng bộ toàn tỉnh chỉ đạo công tác hằng ngày, giao thiệp với các đoàn thể và thượng cấp đảng bộ. Ban uỷ viên của tỉnh, thành lớn, đặc biệt bộ mà không có thường vụ thì mỗi tuần khai một lần, có thường vụ thì mỗi tháng khai một lần.

Đ- Xứ bộ

27. Cơ quan cao nhất của xứ bộ là toàn xứ đại biểu hội nghị, cuộc hội nghị này cử ra xứ uỷ là cơ quan cao nhất trong xứ trong khoảng hai lần xứ đại biểu hội nghị.

28. Các đại biểu hội nghị do xứ uỷ chiêu tập, cứ mỗi năm chiêu tập một lần, tư cách và số đại biểu do xứ uỷ định. Xứ đại biểu hội nghị thảo luận và chuẩn y báo cáo của xứ uỷ, cử lại xứ uỷ, cử đại biểu đi khai Đảng Đại hội.

29. Xứ uỷ cử ra một Ban Thường vụ (gồm người chánh thức và dự bị thư ký) để chỉ đạo công tác hằng ngày, chỉ huy các đặc ban, phân phối cán bộ và tài chính toàn xứ bộ, kiểm tra sự thực hành các nghị quyết của xứ đại biểu hội nghị, xứ uỷ và các chỉ thị của Trung ương. Các người thư ký và chủ nhiệm bộ tuyên truyền của xứ phải do Trung ương chuẩn y. Xứ uỷ phải kinh thường báo cáo cho Trung ương cho đúng kỳ hạn và kế hoạch mà Trung ương đã định. Toàn thể xứ uỷ chí ít ba tháng khai hội một lần.

30. Xứ uỷ phải chia nhau phụ trách một số tỉnh, thành, đặc biệt bộ nhất định và chia công việc trong xứ uỷ như:

a) Bộ Tuyên truyền, cổ động, huấn luyện.

b) Bộ Tài chính.

c) Bộ Tổ chức kiêm giao thông.

Chú ý: theo điều kiện công tác hiện thực, có thể hợp mấy công tác giao cho một người. Lập ra các bộ chuyên môn chỉ định những đồng chí ngoài xứ uỷ phụ trách. Xứ uỷ chỉ huy tất cả công tác trong xứ bộ; trong khoảng hai lần xứ đại biểu hội nghị thì xứ uỷ đại biểu cho xứ đảng bộ mà giao thiệp với các đoàn thể và các cơ quan khác, tổ chức các cơ quan của xứ đảng bộ và chỉ huy sự hành động của cơ quan ấy, chỉ định người chủ bút báo xứ, chuẩn y những người thư ký và chủ bút báo tỉnh, thành lớn, đặc biệt bộ. Xứ uỷ mỗi năm cử lại một lần.

E- Trung ương

31. Cơ quan cao nhất của Đảng là Đảng Đại hội, hai năm triệu tập một lần. Đại hội bất thường thì do Quốc tế Cộng sản quyết định, do sáng kiến của Trung ương tự triệu tập, hay do hơn nửa số đại biểu lần trước yêu cầu, do hơn phần nửa các xứ uỷ hay do hơn phần nửa các đảng viên yêu cầu. Sau Đại hội chính thức hai tháng thì có thể triệu tập Đảng Đại hội bất thường. Đại hội bất thường nếu gồm đại biểu được hơn nửa đảng viên trong khi Đại hội thường trước thì sẽ được trọn quyền giải quyết các vấn đề.

32. Đảng Đại hội:

a) Thảo luận và chuẩn y các báo cáo của Trung ương.

b) Xem lại Chương trình và Điều lệ của Đảng.

c) Quyết định các chiến lược và chiến sách tổ chức của Đảng.

d) Cử Trung ương.

33. Ban Trung ương Chấp uỷ do Đại hội cử ra và Quốc tế Cộng sản chuẩn y, lúc có người uỷ viên chính thức nào thiếu khuyết thì sẽ lấy người dự bị vào thế.

Chú ý:

a) Trung ương gặp hoàn cảnh cần thiết có quyền chỉ định thêm người vào Trung ương, nhưng tất cả số người chỉ định trong khoảng hai lần Đại hội không được quá 1/3 tất cả số uỷ viên Trung ương;

b) Trung ương có thể gửi đảng viên thường vào dự Đại hội của Đảng, nhưng những người ấy không có quyền biểu quyết.

34. Trung ương cử ra Ban Thường vụ để làm công tác hằng ngày. Ban Thường vụ cử ra người tổng và dự bị tổng thư ký để chỉ huy công việc trong cơ quan trung ương, phân phối cán bộ của Đảng, để kiểm tra sự thực hành các nghị quyết của Đại hội, của Quốc tế Cộng sản và của Trung ương.

35. Những người trong Trung ương phải phân phối làm người chỉ đạo và đại biểu của Trung ương trong các xứ uỷ, đồng thời phải chia nhau phụ trách công tác trung ương. Trung ương cử ra các đặc bộ như:

a) Bộ Tuyên truyền, cổ động và huấn luyện;

b) Bộ Tài chính;

c) Bộ Tổ chức kiêm giao thông.

Chú ý: theo điều kiện hiện thực công tác Trung ương có thể lập ra các đặc ban như: công, nông, binh, phụ nữ vận động, v.v., công việc đặc biệt phải hoàn toàn phân khai, không được dính dấp tới công tác hằng ngày của Đảng.

36. Trong khoảng hai lần Đại hội, Trung ương là cơ quan cao nhất của Đảng, lãnh đạo công tác toàn Đảng, liên lạc với các đảng bộ và các đoàn thể khác, tổ chức ra các cơ quan của Đảng và chỉ đạo sự hành động trong các cơ quan ấy, chỉ định ban biên tập báo trung ương, chuẩn y các thư ký và các chủ nhiệm bộ tuyên truyền các xứ uỷ, phân phối và quản lý tài chính của Trung ương.

37. Trung ương chí ít ba tháng khai toàn thể Trung ương hội nghị một lần; như hoàn cảnh khó khăn thì chí ít là sáu tháng khai một lần, phải kinh thường gửi thông tri đặc biệt xuống các đảng bộ địa phương để thông tri công tác của mình cho các địa phương biết.

38. Muốn cho sự chỉ đạo bônsơvích được phát triển, thì các cơ quan thượng cấp (từ trung ương cho tới tổng bộ, khu bộ) kinh thường có thể gửi người xuống hạ cấp kế đó (trung ương xuống xứ uỷ, xứ uỷ xuống tỉnh, v.v.) để kiểm tra và chỉ đạo công tác của các địa phương. Trung ương có quyền lập ra các đảng bộ đặc biệt.

Chú ý:

a) ngoài Đảng Đại hội và các cấp đảng đại biểu hội nghị, mỗi cấp đảng bộ có thể triệu tập hội nghị cán bộ và hội nghị khoách đại của các cấp toàn thể chấp uỷ, mỗi cấp hội nghị cán bộ do ban uỷ viên tương đương tự sáng kiến chiêu tập, do hơn nửa các ban uỷ viên hạ cấp kế đó yêu cầu, hay do thượng cấp cơ quan quyết định. Những nghị quyết của hội nghị ấy phải do ban uỷ viên tương đương chuẩn y thì mới được thi hành.

b) Như được cơ quan thượng cấp đồng ý thì các hội nghị cán bộ có thể thế cho đại biểu hội nghị tương đương. Gặp những điều kiện ấy thì các hội nghị cán bộ có quyền cử lại ban uỷ viên khác. Những nghị quyết của hội nghị thì ban uỷ viên tương đương và các đảng bộ hạ cấp nhất thiết phải tuân hành.

c) Các cấp thường vụ của các cấp đảng bộ chí ít mỗi tuần phải khai hội một lần.

d) Nhiệm vụ người dự bị thư ký là: 1) Hằng ngày giúp chánh thức thư ký đốc thúc thi hành các nghị quyết của Đảng; 2) Thay chánh thức thư ký trong khi bận việc.

V- Dân chủ và kỷ luật của đảng

39. Chiếu theo dân chủ nội bộ, thì mỗi đảng viên có quyền tự do thảo luận chánh sách của Đảng trong các đảng bộ hay là toàn Đảng; chỉ có theo dân chủ nội bộ thì sự tự chỉ trích bônsơvích mới có thể phát triển và kỷ luật sắt của Đảng mới được vững vàng. Kỷ luật này không phải như máy, mà phải có giác ngộ. Nhưng sự thảo luận về các vấn đề chính sách của Đảng phải thực hiện một cách thế nào để cho các đảng bộ hay các cán bộ của Đảng đừng bị khủng bố hay là đừng để cho một thiểu số đảng viên bắt buộc đa số phải theo ý kiến của họ, đừng để cho thành lập các bè phái trong Đảng, làm cho Đảng mất sự thống nhất, làm cho vô sản giai cấp phải chia rẽ. Bởi vậy cho nên sự thảo luận rộng rãi trong Đảng có thể công nhận là cần thiết nếu như theo những điều kiện sau đây:

a) Đa số xứ đảng bộ hay đa số đảng viên công nhận sự cần thiết ấy.

b) Nếu như có đa số trong Trung ương tán thành về một vấn đề nào đó, nhưng Trung ương cho rằng cần mở rộng cuộc thảo luận để xem chánh sách của mình có đúng không. Chỉ có những điều kiện ấy và giữ bí mật thì mới ngăn trở được những phần tử phản động lợi dụng dân chủ nội bộ. Chỉ có theo những điều kiện ấy thì chúng ta mới có thể công nhận rằng dân chủ nội bộ là có ích cho công tác cách mạng và không bị bọn nghịch thù lợi dụng để phá hoại Đảng và vô sản giai cấp. Cuộc thảo luận trong toàn Đảng phải do Trung ương cương quyết chỉ huy. Cuộc thảo luận trong các địa phương do ban uỷ viên ở các địa phương chỉ huy.

40. Muốn giữ cho Đảng được thống nhất phải kịch liệt công kích những sự lo toan lập bè phái và chia rẽ trong Đảng, cần có kỷ luật nghiêm khắc, đấy là những nghĩa vụ của toàn đảng viên và tất cả các đảng bộ. Muốn thực hiện được kỷ luật tối nghiêm khắc trong Đảng và muốn bảo chứng sự hoàn toàn thống nhất về các phương diện, Ban Trung ương có quyền thực hành hết thảy các điều kỷ luật cho tới sự khai trừ để đối phó với những sự phá kỷ luật hay lập bè phái trong Đảng.

41. Các nghị quyết của các cơ quan chỉ huy phải thực hành một cách lanh lẹ và xác đáng: như không thực hành các nghị quyết của các cơ quan thượng cấp và nếu làm những điều mà Đảng công nhận là trái thì sẽ phân xử như:

a) Đối với đảng bộ: phê bình, giải tán;

b) Đối với cá nhân: chỉ trích, cảnh cáo, tạm thời đình chỉ công tác phụ trách, khai trừ tạm thời hay khai trừ vĩnh viễn;

c) Đối với vấn đề phạm kỷ luật thì do toàn hội nghị chi bộ hoặc các cấp đảng bộ tra xét, các cấp uỷ viên có thể đặt ra ban đặc biệt uỷ viên để tra xét những vấn đề phạm kỷ luật của Đảng. Những nghị quyết của đặc biệt uỷ viên ấy phải có đảng uỷ y cho rồi mới thi hành.

42. Khi khai trừ đảng viên nào thì do toàn chi bộ hội nghị bằng lòng và do thượng cấp y cho mới được, khi có nghị quyết khai trừ, nhưng chưa được thượng cấp y cho, thì phải đình chỉ công tác người bị khai trừ đó.

43. Người bị khai trừ có quyền kêu nài lên cơ quan thượng cấp, cho tới cơ quan tối cao.

44. Các cơ quan thượng cấp thấy đảng viên nào phản động thì có quyền trực tiếp khai trừ, nhưng phải thông tri cho đảng bộ của người bị khai trừ biết. Nếu một đảng bộ nào thấy một đảng viên đảng bộ khác hành động phản động thì phải thông tri cho đảng bộ người ấy hay.

45. Khi đã có nghị quyết khai trừ, phải đăng vào báo Đảng.

Vi- Tài chánh

46. Kinh phí của Đảng phải do đảng phí và đặc biệt quyên.

47. Kinh phí của mỗi đảng viên mỗi tháng bao nhiêu do Trung ương định.

48. Những đồng chí thất nghiệp hay nghèo quá thì được miễn đảng phí.

49. Không có cớ gì mà ba tháng không nộp đảng phí thì cũng như bỏ Đảng, sẽ tuyên bố ra toàn chi bộ hội nghị mà khai trừ.

50. Tài chánh của Đảng phải thống nhất từ dưới lên trên.

VII- Đảng đoàn

51. Trong các công hội, nông hội và các đoàn thể phổ thông hay trong các ban uỷ viên của các hội ấy, trong các cấp hội nghị các hội đồng, v.v. có từ hai đảng viên trở lên thì lập ra đảng đoàn. Nhiệm vụ các đảng đoàn trong các đoàn thể ấy là phải mở rộng ảnh hưởng của Đảng và thực hành chính sách của Đảng.

52. Đảng đoàn dưới quyền chỉ huy của đảng uỷ tương đương mình mà giải quyết các vấn đề trong đảng đoàn của mình; nếu đảng uỷ và đoàn uỷ có ý kiến không đồng nhau mà kêu nài lên thì do thượng cấp cơ quan đảng bộ kế đó giải quyết; nhưng trong lúc kêu nài chưa được giải quyết thì đảng đoàn phải chấp hành nghị quyết của đảng uỷ.

53. Khi đảng uỷ có thảo luận vấn đề quan hệ tới đảng đoàn thì phải có đại biểu của đảng đoàn tới dự hội, đại biểu ấy có quyền thảo luận và biểu quyết.

54. Đảng đoàn lớn phải cử ban cán sự gồm người thư ký để làm việc hằng ngày; ban cán sự và người thư ký ấy phải có đảng uỷ y cho. Ban cán sự ấy đối với đảng uỷ phải phụ trách công việc trong đảng đoàn mình. Đảng uỷ có quyền phái người tham gia các hội nghị của đảng đoàn, có quyền điều người ở đảng đoàn về, nhưng phải thông tri cho đảng đoàn biết.

55. Trước khi cử những người làm việc trọng yếu trong các đảng đoàn thì đảng đoàn phải thương lượng với đảng uỷ.

VIII- Thanh niên cộng sản đoàn

56. Các cơ quan chỉ đạo, hay lúc Đảng và Thanh niên Cộng sản Đoàn hội nghị từ chi bộ cho tới Trung ương phải có đại biểu của cả hai bên.

57. Nhiệm vụ của các đại biểu đảng đi tham gia các hội nghị của Đoàn là chỉ huy công tác cơ quan của Thanh niên Cộng sản Đoàn, để đưa chánh sách của Đảng mà thi hành trong Đoàn. Nếu cơ quan của Đoàn thi hành sai đường chánh của Đảng thì đại biểu của Đảng có quyền cải chính và phải báo cáo cho đảng uỷ biết. Nếu cơ quan chỉ huy của Đoàn không đồng ý kiến với đại biểu của Đảng thì cơ quan đoàn với đại biểu đảng phải lập tức báo cáo với cơ quan đảng bộ phân xử, nhưng lúc chưa phân xử thì cơ quan đoàn phải chấp hành chỉ thị của đại biểu đảng, các nghị quyết của đoàn uỷ phải do đảng uỷ chuẩn y.

58. Nhiệm vụ của đại biểu Thanh niên Cộng sản Đoàn tham gia các hội nghị của Đảng là để bày tỏ cho Đảng biết những điều nhu yếu của thanh niên, để giúp Đảng về công việc trong thanh niên, đại biểu đoàn chỉ có quyền thảo luận mà thôi, nhưng khi cơ quan đảng thảo luận đến vấn đề nào có liên hệ đến thanh niên thì có quyền biểu quyết.

59. a) Bản Điều lệ này thay cho bản cũ.

b) Bản Điều lệ này nếu có chỗ sửa đổi thì do Đại hội Đảng hoặc Quốc tế Cộng sản quyết định.

Ngày 29 tháng 3 năm 1935

Công nhận tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương

.

Bản quyền thuộc về "Báo Công Thương Điện Tử", chỉ được dẫn nguồn khi có thỏa thuận bằng văn bản.