Phụ thuộc bên ngoài
Mặc dù có hệ thống sông ngòi dày đặc nhưng tổng lượng nước từ nước ngoài chảy vào Việt Nam chiếm tới khoảng 63%, còn lượng nước sinh ra ở phần lãnh thổ chỉ khoảng 37%, tương đương từ 310 - 315 tỷ m3/năm.
Nhiều nơi còn thiếu nước sinh hoạt, sản xuất |
Trong khi đó, dòng chảy ở trong nước lại phân bố không đều, tập trung chủ yếu tại lưu vực sông Cửu Long (khoảng 57%), sông Hồng - Thái Bình (khoảng 16%), còn lại ở các lưu vực sông khác.
Đáng lo ngại, việc khai thác nước tập trung quy mô lớn dẫn đến hạ thấp mực nước sâu và gây ra tình trạng xâm nhập mặn, ô nhiễm nguồn nước vùng Đồng bằng sông Cửu Long, ven biển miền Trung. Kèm theo đó, nước thải không được xử lý đúng quy chuẩn, kỹ thuật… gây sức ép lớn đến số lượng, chất lượng nguồn nước các sông, suối. Nhiều sông chính, khu vực tập trung đông dân cư, khu công nghiệp, làng nghề… bị ô nhiễm trầm trọng. Trong khi đó, nhu cầu về nguồn nước cho sinh hoạt và sản xuất tăng nhanh, càng đặt ra nhiều thách thức về an ninh nguồn nước.
Năm 2020, trong báo cáo giám sát an ninh nguồn nước và an toàn hồ đập, Ủy ban Khoa học của Quốc hội cũng đã chỉ ra một số thách thức ảnh hưởng đến an ninh nguồn nước tại Việt Nam như: Chưa đảm bảo về số lượng, chất lượng nguồn nước; chưa đảm bảo về cấp nước, an toàn hồ chứa, phụ thuộc nguồn nước ở nước ngoài... Chính vì vậy, việc xây dựng “Đề án bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia” rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay, nhằm cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, từng bước nâng cao sự bảo đảm an ninh nguồn nước cho từng giai đoạn cụ thể, hướng tới chỉ số an ninh nguồn nước tổng hợp đạt 3/5 vào năm 2030 và cao hơn nữa vào năm 2040.
Nỗ lực hoàn thiện Đề án
Mới đây, tại cuộc họp trực tuyến về tình hình xây dựng “Đề án bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia”, đại diện Cục Quản lý tài nguyên nước (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết, đến nay, Cục đã xây dựng nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đảm bảo an ninh tài nguyên nước quốc gia. Theo đó, đến năm 2030 cần tập trung nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp để hoàn thành tối đa và sớm nhất các mục tiêu đặt ra, bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia gắn với phát triển bền vững kinh tế - xã hội, môi trường, tránh đầu tư dàn trải, không hiệu quả và rà soát, kế thừa, phát huy các nhiệm vụ, giải pháp hiệu quả đã thực hiện.
Đối với nhiệm vụ, giải pháp đến năm 2045 và những năm tiếp theo, cần tiếp tục hoàn thiện, nâng cao năng lực thể chế, tổ chức quản lý để đáp ứng yêu cầu quản lý nguồn nước trong thời kỳ mới.
Mục tiêu cụ thể của Đề án đến năm 2030 là giảm thiểu tối đa sự phụ thuộc, tối ưu hóa lợi ích do nguồn nước mang lại từ các nguồn nước liên quốc gia; chủ động điều tiết nước, phòng ngừa, ứng phó sự cố ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt, hạn hán, xâm nhập mặn; khắc phục có hiệu quả, bền vững tình trạng hạn hán, thiếu nước vào mùa khô các vùng Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long, vùng sâu, vùng xa và hải đảo...
Bên cạnh đó, nâng cao khả năng tiếp cận nguồn nước sạch, an toàn cho người dân; kiểm soát cơ bản 90% hoạt động khai thác, sử dụng nước, bảo đảm sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, bền vững, an toàn, công bằng, hợp lý; kiểm soát trên 90% nguồn thải vào nguồn nước có vai trò quan trọng trong cấp nước được xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường... Đồng thời, cải thiện việc cung cấp dịch vụ cấp nước đô thị, nông thôn, nâng tỷ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của người dân; đảm bảo an ninh lương thực thông qua việc vận hành hiệu quả các công trình thuỷ lợi trong điều kiện biến đổi khí hậu…
Phát biểu tại cuộc họp, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường - ông Trần Hồng Hà - đề nghị, các đơn vị chuyên môn cần đánh giá lại toàn bộ Đề án, đóng góp ý kiến chuyên môn để đánh giá được thực trạng về tài nguyên nước hiện nay. Đưa ra đánh giá khoa học, dự báo về những vấn đề thách thức với tài nguyên nước, từ đó làm rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan và quan điểm, chủ trương, mục tiêu; qua đó có những giải pháp đồng bộ, áp dụng khoa học công nghệ để kiểm soát được vấn đề an ninh tài nguyên nước hiện nay.
Theo các chuyên gia, việc bảo đảm an ninh tài nguyên nước quốc gia phải dựa trên cơ sở quản lý tổng hợp tài nguyên nước, thống nhất quản lý về tài nguyên nước, do cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên nước chịu trách nhiệm điều phối chung. Việc quản lý phải thống nhất về số lượng, chất lượng nước; giữa nước mặt và nước dưới đất; nước trên đất liền và nước vùng cửa sông, nội thủy, lãnh hải; giữa thượng lưu và hạ lưu, kết hợp với quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác.
Đảm bảo an ninh tài nguyên nước quốc gia phải kết hợp hài hòa giải pháp công trình và phi công trình, đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội, môi trường và phát triển bền vững, tối ưu hóa nguồn lực phát triển. Quản lý phải dựa trên kết quả điều tra cơ bản, quan trắc, giám sát và phải được chuyển đổi số nhằm điều hòa, phân bổ, phát triển nguồn nước theo thời gian thực. |