Từ khó khăn đến thịnh vượng: Hành trình phát triển kinh tế Việt Nam
Ngay sau ngày giành độc lập (1945), Chính phủ lâm thời đã đặc biệt quan tâm đến việc khôi phục sản xuất và phát triển kinh tế. Trong hoàn cảnh đất nước bộn bề khó khăn, ngày 28/8/1945, Bộ Kinh tế được thành lập. Ngày 14/5/1951, Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra Sắc lệnh số 21-SL đổi tên Bộ Kinh tế thành Bộ Công Thương.

Tổ máy số 4 Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại chính thức phát điện từ cuối năm 1986. (Ảnh: TTXVN)
Trong 30 năm kháng chiến trường kỳ (1945 – 1975), Chính phủ vừa lãnh đạo toàn dân đấu tranh bảo vệ độc lập, vừa nỗ lực khôi phục sản xuất để nuôi dưỡng sức người, sức của cho chiến trường. Công nghiệp thời kỳ này còn ở mức sơ khai, chủ yếu là các cơ sở thủ công, sửa chữa và chế biến nhỏ lẻ, nhưng đã đặt những viên gạch đầu tiên cho quá trình công nghiệp hóa sau này.
Hoạt động thương mại cũng được duy trì trong muôn vàn khó khăn, từ khôi phục chợ, phát triển mạng lưới lưu thông hàng hóa ở nông thôn, cho đến việc từng bước hình thành hệ thống mậu dịch quốc doanh ở miền Bắc sau năm 1954. Dù còn khiêm tốn, công nghiệp – thương mại đã khẳng định vai trò nền tảng, góp phần quan trọng bảo đảm hậu cần cho kháng chiến và ổn định đời sống nhân dân.
Sau đại thắng mùa Xuân 1975, đất nước thống nhất, Chính phủ đối diện với nhiệm vụ khôi phục sản xuất, hàn gắn vết thương chiến tranh và cải tạo nền kinh tế trên phạm vi cả nước. Dù phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, tuy nhiên, với việc tập trung khôi phục nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa theo mô hình kế hoạch hóa tập trung. Đây cũng là giai đoạn đất nước tích lũy nhiều bài học quan trọng cho bước đột phá sau này.
Công cuộc Đổi mới năm 1986 đã mở ra bước ngoặt lịch sử, đưa nền kinh tế Việt Nam từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây chính là động lực giúp thương mại mở rộng, công nghiệp phát triển mạnh mẽ và đời sống nhân dân từng bước được nâng cao.
Nếu như năm 1986, quy mô GDP Việt Nam chỉ khoảng 4,8 tỷ USD, thì đến năm 2024 đã đạt gần 480 tỷ USD (theo số liệu Ngân hàng Thế giới, giá hiện hành), tăng gấp khoảng 100 lần. Đây là minh chứng rõ nét cho tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế.
Trên bảng xếp hạng toàn cầu, Việt Nam đã vươn lên đứng thứ 31 thế giới về quy mô GDP, vượt xa vị thế khiêm tốn của những năm đầu đổi mới (từng chỉ xếp quanh hạng 150 – 160). Kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng, đưa Việt Nam vào nhóm 20 quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới.
Thu nhập bình quân đầu người cũng phản ánh rõ bước tiến vượt bậc. Năm 1986, mức thu nhập chỉ vài trăm USD, đưa Việt Nam vào nhóm nước nghèo. Đến năm 2024, con số này đạt khoảng 4.700 USD/người/năm, tuy chưa cao so với nhiều quốc gia phát triển, nhưng đủ để khẳng định nỗ lực bền bỉ và những bước tiến dài của nền kinh tế.
Hình thành các ngành công nghiệp mũi nhọn
Quá trình đổi mới đã thúc đẩy công nghiệp Việt Nam phát triển nhanh, hình thành các ngành mũi nhọn, tạo nền tảng vững chắc cho công nghiệp hóa. Trong đó, ngành khai thác và chế biến dầu khí đã từ chỗ phụ thuộc vào liên doanh Vietsovpetro với Liên Xô, đến nay đã xây dựng các nhà máy lọc dầu như Dung Quất và mở rộng năng lực khai thác độc lập.

Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng công nghiệp đạt bình quân trên 8,5%/năm. Ảnh minh họa
Các lĩnh vực điện tử, viễn thông và công nghệ thông tin tăng trưởng mạnh, đưa Việt Nam trở thành điểm đến sản xuất linh kiện, thiết bị điện tử quan trọng trong khu vực. Luyện kim, sắt thép hình thành hệ thống nhà máy quy mô lớn, tạo nền móng cho ngành chế tạo; sản lượng xi măng đạt hàng chục triệu tấn mỗi năm, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Dệt may, da giày vươn lên nhóm quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới, trong khi cơ khí và chế tạo, đặc biệt sản xuất ô tô, xe máy, từng bước phát triển. Sự trỗi dậy của các ngành này không chỉ tạo động lực tăng trưởng, mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh toàn cầu, đưa Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất quan trọng của châu Á.
Một chỉ dấu quan trọng của công nghiệp hóa là sự chuyển dịch cơ cấu GDP từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Năm 1986, nông nghiệp chiếm gần 40% GDP, công nghiệp 25% và dịch vụ 30%. Đến năm 2024, nông nghiệp giảm dưới 12%, công nghiệp tăng lên 38%, dịch vụ đạt 42,4%. Điều này cho thấy nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng, nhưng nhường chỗ cho công nghiệp và dịch vụ – những động lực chính của nền kinh tế hiện đại.
Ngành công nghiệp Việt Nam hiện có phạm vi rộng, đa dạng lĩnh vực. Nếu những năm đầu đổi mới, hoạt động công nghiệp chủ yếu tập trung vào khai thác và xuất khẩu tài nguyên thô, đặc biệt là dầu mỏ. Giai đoạn 1989 – 1990, khi bắt đầu xuất khẩu dầu thô, mặt hàng này chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong bối cảnh sản phẩm công nghiệp chế biến còn hạn chế. Đến năm 2011, tỷ trọng dầu thô giảm xuống dưới 8% và đến năm 2024 chỉ còn khoảng 2,5%, minh chứng rõ nét cho quá trình giảm phụ thuộc vào tài nguyên thô và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cùng với việc giảm vai trò khai khoáng, công nghiệp chế biến, chế tạo trở thành động lực chính của tăng trưởng. Năm 2011, tỷ trọng ngành này trong GDP chưa tới 19%, nhưng đến năm 2024 đã tăng lên khoảng 25%, khẳng định vị thế trụ cột của nền kinh tế trong giai đoạn hội nhập và phát triển.
Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu phản ánh rõ sự chuyển đổi này. Trước đây, nền kinh tế chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên và nông sản. Năm 1989, Việt Nam lần đầu xuất khẩu gạo cùng dầu thô – hai mặt hàng chủ lực thời kỳ đó. Hiện nay, nông sản và khoáng sản chỉ chiếm khoảng 8% kim ngạch xuất khẩu, trong khi sản phẩm công nghiệp đạt tới 91%, minh chứng cho sự trưởng thành vượt bậc của công nghiệp chế biến, chế tạo và vai trò dẫn dắt của khu vực này trong tăng trưởng xuất khẩu.
Từ chợ tem phiếu đến thương mại điện tử
Nếu thương mại quốc tế là cửa ngõ hội nhập thì thương mại nội địa phản ánh đời sống người dân qua từng giai đoạn. Trước năm 1986, hàng hóa trong nước khan hiếm; từ gạo, thịt đến vải vóc, xăng dầu đều phải phân phối bằng tem phiếu. Mỗi người chỉ được mua khoảng 13 kg gạo, 3 lạng thịt mỗi tháng và 3 – 4 mét vải cả năm.

Trong 5 năm 1986 - 1990, ngân sách đã chi cho tích lũy với khối lượng bằng 27,61 lần và chi cho tiêu dùng bằng 32,63 lần so với 5 năm 1981 - 1985. Ảnh: Tạp chí tài chính.
Hệ thống phân phối chủ yếu dựa vào chợ truyền thống quy mô nhỏ, cửa hàng mậu dịch quốc doanh, hợp tác xã và một số hộ buôn bán lẻ. Tuy nhiên, hàng hóa tại cửa hàng luôn ít ỏi và thường xuyên thiếu hụt.
Sau đổi mới năm 1986, sản xuất hàng hóa khởi sắc, nguồn cung ổn định hơn, nhưng thay đổi không diễn ra ngay lập tức. Trong giai đoạn 1993 – 2002, thị trường vẫn còn khó khăn; những vật dụng đơn giản như lò vi sóng còn xa lạ, người dân phải nhờ mang từ nước ngoài, sản phẩm lại cồng kềnh, thô sơ.
Đến nay, thị trường nội địa đã cất cánh, hàng hóa đa dạng, phong phú và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân. Hệ thống phân phối ngày càng hiện đại và năng động, đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng và tăng trưởng kinh tế.
Chợ truyền thống vẫn là kênh quan trọng, được mở rộng và nâng cấp; cả nước hiện có khoảng 8.700 chợ, bao gồm chợ đầu mối với hơn 2,2 triệu hộ kinh doanh bán lẻ. Nhiều chợ truyền thống lớn tại Hà Nội như Hàng Da, Đồng Xuân đã khang trang hơn, đặc biệt cho hàng tiêu dùng thiết yếu và nông sản.
Bên cạnh đó, hệ thống phân phối hiện đại phát triển nhanh, từ trung tâm thương mại, siêu thị đến cửa hàng tiện lợi. Hiện cả nước có gần 300 trung tâm thương mại, khoảng 1.300 siêu thị cùng các chuỗi lớn như Aeon, Lotte, Emart, Central Retail, WinMart và hệ thống BRG.

Khu vực bên trong chợ Đồng Xuân, Hà Nội. Ảnh minh họa
Thương mại điện tử cũng bùng nổ mạnh mẽ, với khoảng 80% dân số dùng Internet và mua sắm trực tuyến trở thành thói quen phổ biến. Năm 2023, thương mại điện tử Việt Nam đạt 25 tỷ USD, tăng 25% so với 2022, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng mức bán lẻ 200 tỷ USD/năm, đưa Việt Nam vào nhóm thị trường thương mại điện tử sôi động hàng đầu thế giới.
Từ chợ truyền thống đến siêu thị, từ cửa hàng tiện lợi đến nền tảng trực tuyến, hệ thống phân phối hàng hóa Việt Nam đang phát triển toàn diện về quy mô và chất lượng, vừa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân, vừa thúc đẩy sản xuất trong nước và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Nhìn lại 80 năm, dấu ấn của Chính phủ trong lĩnh vực ngành Công Thương là hành trình từ sản xuất tự cung tự cấp đến hội nhập toàn cầu, từ thủ công truyền thống đến công nghiệp công nghệ cao. Đây không chỉ là thành quả phát triển kinh tế, mà còn là minh chứng cho khát vọng vươn lên của một dân tộc kiên cường, bền bỉ trên con đường hội nhập và phát triển.