Niên biểu toàn khoá (Đại hội Đảng Lần thứ III)
Thời gian: Từ 5 đến 10-9-1960
Địa điểm: Thủ đô Hà Nội
Số lượng đảng viên trong cả nước: 500.000
Số lượng tham dự Đại hội: 525 đại biểu
Chủ tịch Đảng được bầu tại Đại hội: Chủ tịch Hồ Chí Minh
Bí thư Thứ nhất được bầu tại Đại hội: Đồng chí Lê Duẩn
Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 47 uỷ viên.
Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 11 uỷ viên
Nhiệm vụ chính: Xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam.
Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 5 đến 12-9-1960.
Có 525 đại biểu chính thức, 51 đại biểu dự khuyết thay mặt cho hơn 50 vạn đảng viên cả nước. Trong số đó 50% là đảng viên tham gia cách mạng từ khi Đảng còn hoạt động bí mật. Gần 20 đoàn đại biểu quốc tế đến dự Đại hội.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 47 uỷ viên chính thức. Bộ Chính trị gồm 11 uỷ viên chính thức và hai uỷ viên dự khuyết. Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
9 giờ 47 phút ngày 2-9-1969 Hồ Chí Minh qua đời, Người để lại một bản Di chúc cho toàn Đảng, toàn dân.
Tháng 5 năm 1975, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân đã toàn thắng, miền Nam hoàn toàn được giải phóng, non sông thu về một mối.
Ngày 25-4-1976 cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khoá VI thành công. Quốc hội long trọng tuyên bố hoàn thành thống nhất nước nhà về mặt nhà nước và quyết định lấy tên nước là Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III đã họp 25 lần để quyết định các vấn đề quan trọng của Đảng và Nhà nước ta, trong đó có vấn đề nhiệm vụ quốc tế của đảng ta bảo vệ sự trong sáng của Chủ nghĩa Mác Lênin, các kế hoạch 3 năm và 5 năm để xây dựng cơ sở vật chất của CNXH ở miền Bắc, Tổng tiến công và chiến thắng đế quốc Mỹ ở miền Nam.
Giữa lúc công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế ở miền Bắc đang giành được những kết quả to lớn và cách mạng ở miền Nam đã tiến lên một bước phát triển mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã họp tại Hà Nội. Sau những ngày họp nội bộ, Đại hội đã họp công khai từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960. Dự Đại hội có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết thay mặt hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước, trong đó 50% số đại biểu là các đảng viên đã tham gia cách mạng từ khi Đảng còn hoạt động bí mật. Tất cả các đại biểu đã trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược. Nhiều đại biểu là anh hùng và chiến sĩ thi đua, là đại biểu đại diện cho các dân tộc thiểu số, là nhà thơ, nhà văn, nhà giáo, nhà khoa học. Dự đại hội còn có đại biểu của Đảng xã hội, Đảng dân chủ và các đoàn thể trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Gần 20 đoàn đại biểu quốc tế đến dự Đại hội.
Hồ Chí Minh đọc Lời khai mạc Đại hội. Người nói, lịch sử 30 năm đấu tranh của Đảng đã dạy chúng ta rằng: "Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp vô sản và của dân tộc, giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng và sự đoàn kết nhất trí giữa các đảng cộng sản, giữa các nước trong đại gia đình xã hội chủ nghĩa, đó là cái bảo đảm chắc chắn nhất cho cách mạng thắng lợi".
Người nêu khái quát nhiệm vụ mới của cách mạng Việt Nam và nói rõ: "Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà". Để bảo đảm thắng lợi của cách mạng, vấn đề có ý nghĩa quyết định là "phải nâng cao hơn nữa sức chiến đấu của toàn Đảng ta, phát huy hơn nữa tác dụng lãnh đạo của Đảng ta trên mọi mặt công tác. Từ trước tới nay, Đảng ta đã cố gắng liên hệ chặt chẽ chủ nghĩa Mác - Lênin với thực tế cách mạng Việt Nam. Cán bộ và đảng viên ta nói chung đều có phẩm chất cách mạng tốt đẹp. Nhưng chúng ta còn khuyết điểm như: bệnh chủ quan, chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm, tác phong quan liêu, chủ nghĩa cá nhân... Chúng ta phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tăng cường giáo dục tư tưởng trong Đảng, đấu tranh khắc phục những khuyết điểm... Phải nâng cao hơn nữa tính giai cấp và tính tiên phong của Đảng, tăng cường không ngừng mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng, phải biết đoàn kết mọi người yêu nước và tiến bộ để xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà".
Đại hội đã nghe Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Lê Duẩn đọc; Báo cáo về sửa đổi Điều lệ Đảng do Lê Đức Thọ đọc; Báo cáo về phương hướng và nhiệm vụ kế hoạch năm năm lần thứ nhất do Nguyễn Duy Trinh đọc và nhiều tham luận khác.
Bản Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương đã kiểm điểm lại sự lãnh đạo của Đảng từ Đại hội lần thứ II đến Đại hội lần thứ III, đặc biệt là thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954. Báo cáo viết: "Trong quá trình kháng chiến Đảng ta dựa trên cơ sở liên minh công nông và không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đã ra sức mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, phát triển lực lượng vũ trang nhân dân, thực hiện phương châm toàn dân đoàn kết, kháng chiến lâu dài, tự lực cánh sinh, giết giặc cứu nước. Làm cho phương châm kháng chiến lâu dài được thấu suốt là một quá trình giáo dục và đấu tranh tư tưởng bền bỉ trong toàn Đảng và toàn dân, chống khuynh hướng sai lầm đã từng nảy ra trong những năm kháng chiến".
"Đi đôi với kháng chiến và để bồi dưỡng lực lượng kháng chiến, Đảng ta và Nhà nước dân chủ nhân dân đã tiến hành từng bước những cải cách dân chủ, đi đến thực hiện cải cách ruộng đất ngay trong kháng chiến, nhằm hạn chế rồi xoá bỏ sự bóc lột của giai cấp địa chủ, cải thiện đời sống cho nhân dân lao động, chủ yếu cho nông dân là lực lượng to lớn nhất của kháng chiến". "Cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân ta kết thúc thắng lợi. Thắng lợi đó chứng tỏ rằng trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc dù là nhỏ yếu, nhưng một khi đã đoàn kết đứng lên kiên quyết đấu tranh dưới sự lãnh đạo của chính đảng Mác - Lênin để giành độc lập và dân chủ, thì có đầy đủ lực lượng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Thắng lợi đó cũng chứng tỏ rằng chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn của giai cấp công nhân mà Đảng ta là đại biểu, chỉ có đường lối cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thể tạo điều kiện cho nhân dân ta đánh bại quân thù và giành tự do, độc lập".
Phân tích tình hình đất nước ta tạm thời chia làm hai miền có hai chế độ khác nhau, bản báo cáo xác định: "Nhiệm vụ cách mạng của nhân dân ta trong giai đoạn hiện nay là: tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hoà bình ở Đông - Nam á và thế giới".
Hai nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, song hai nhiệm vụ đó trước mắt đều có một mục tiêu chung là thực hiện hoà bình thống nhất Tổ quốc, đều nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai của chúng. Giải quyết mâu thuẫn chung ấy là trách nhiệm của cả nước, song mỗi miền có nhiệm vụ chiến lược riêng và có vị trí khác nhau.
"Nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc... là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân ta". Còn "cách mạng miền Nam có vị trí rất quan trọng. Nó có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước".
Xuất phát từ những nhiệm vụ cơ bản của nhân dân miền Bắc, mà đặc điểm lớn nhất là đi từ một nền kinh tế lạc hậu, chủ yếu dựa trên cơ sở sản xuất nhỏ cá thể, cơ sở kinh tế tư bản chủ nghĩa hết sức kém cỏi tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, cho nên "công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc phải là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt nhằm đưa miền Bắc từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ chế độ sản xuất nhỏ tiến lên chế độ sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, từ tình trạng kinh tế rời rạc và lạc hậu, xây dựng thành một nền kinh tế cân đối và hiện đại, làm cho miền Bắc tiến bộ mau chóng, thành cơ sở ngày càng vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà".
Quá trình cải biến cách mạng ở miền Bắc là một quá trình kết hợp cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, là quá trình đấu tranh gay go và phức tạp giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá và kỹ thuật.
Từ sự phân tích đó, Đại hội đã xác định đường lối chung của Đảng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là "đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn và truyền thống phấn đấu anh dũng, lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em do Liên Xô đứng đầu, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hoà bình ở Đông - Nam á và thế giới".
"Muốn đạt mục tiêu ấy phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hoá và kỹ thuật; biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học tiên tiến".
Để thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa làm cho nền kinh tế miền Bắc nước ta thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, Đại hội xác định những nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch năm năm lần thứ nhất:
- Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp toàn diện, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp nhẹ...
- Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh, củng cố và tăng cường thành phần kinh tế quốc doanh, mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân, đẩy mạnh đào tạo cán bộ và công nhân lành nghề, nâng cao năng lực quản lý kinh tế của cán bộ, xúc tiến công tác khoa học và kỹ thuật.
- Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, mở mang phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị.
- Ra sức củng cố quốc phòng, trật tự an ninh xã hội.
Các nhiệm vụ đó mật thiết liên hệ với nhau.
Đại hội cũng quyết định các chủ trương tăng cường nhà nước dân chủ nhân dân, củng cố sự nhất trí về chính trị và tinh thần của nhân dân miền Bắc, đoàn kết quốc tế và đẩy mạnh xây dựng Đảng.
Tổng kết 30 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đại hội đã nêu lên những bài học kinh nghiệm lớn:
- Xây dựng được một chính đảng Mác-Lênin, đoàn kết nhất trí, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, luôn luôn giữ vững quyền lãnh đạo cách mạng.
- Vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, đề ra đường lối, phương châm cách mạng kết hợp đúng đắn nhiệm vụ phản đế và nhiệm vụ phản phong kiến, coi nhiệm vụ chống đế quốc và bè lũ tay sai của chúng là nhiệm vụ chủ yếu nhất và nhiệm vụ phản phong kiến phải tiến hành từng bước, kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ phản đế.
- Giải quyết đúng đắn vấn đề nông dân... thực hiện được khối liên minh công nông vững chắc.
- Dựa trên cơ sở khối liên minh công nông vững mạnh, tập hợp mọi lực lượng dân tộc và dân chủ thành một mặt trận thống nhất rộng rãi dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Lấy việc xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng làm cơ bản,... khéo phối hợp hoạt động không hợp pháp với hoạt động hợp pháp..., kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, kết hợp lực lượng vũ trang với lực lượng chính trị.
- Xây dựng và củng cố lực lượng vũ trang nhân dân.
- Tăng cường nhà nước dân chủ nhân dân, củng cố nền tảng liên minh công nông của nó, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
- Khéo lợi dụng những mâu thuẫn cục bộ và tạm thời trong nội bộ kẻ thù.
- Tăng cường đoàn kết quốc tế.
Kinh nghiệm cách mạng trong 30 năm qua chứng tỏ rằng sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện cơ bản quyết định mọi thắng lợi của nhân dân ta. Muốn cho Đảng làm tròn nhiệm vụ trong giai đoạn mới, vấn đề mấu chốt vẫn là không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tức là "phải nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng, cụ thể là phải tăng cường tính chất giai cấp và tính tiên phong của Đảng, phải củng cố sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, phải cải tiến công tác lãnh đạo của Đảng, phải nâng cao không ngừng trình độ hiểu biết và năng lực công tác của cán bộ, đảng viên, phải làm cho chi bộ trở thành hạt nhân lãnh đạo của Đảng ở cơ sở".
Đại hội nhất trí thông qua nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch năm năm lần thứ nhất, thông qua Điều lệ sửa đổi của Đảng. Bản Điều lệ của Đảng gồm có phần cương lĩnh chung, 12 chương với 62 điều. Cương lĩnh chung ghi rõ: Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, là đội tiên phong có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân... Đảng Lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng,... Đảng đi đường lối quần chúng trong mọi hoạt động của mình, tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có kỷ luật nghiêm minh, lấy phê bình và tự phê bình làm quy luật phát triển của Đảng.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương mới của Đảng gồm 47 uỷ viên chính thức: Hồ Chí Minh, Hoàng Anh, Lê Quảng Ba, Nguyễn Lương Bằng, Trần Tử Bình, Nguyễn Côn, Võ Chí Công, Trường Chinh, Lê Duẩn, Văn Tiến Dũng, Trần Hữu Dực, Phan Văn Đáng, Phạm Văn Đồng, Võ Thúc Đồng, Hà Huy Giáp, Võ Nguyên Giáp, Song Hào, Hoàng Văn Hoan, Trần Quốc Hoàn, Phạm Hùng, Tố Hữu, Nguyễn Văn Kỉnh, Nguyễn Khang, Ung Văn Khiêm, Nguyễn Lam, Nguyễn Văn Linh, Lê Văn Lương, Trần Lương, Lê Hiến Mai, Chu Huy Mân, Đỗ Mười, Lê Thanh Nghị, Hà Thị Quế, Bùi Quang Tạo, Chu Văn Tấn, Phan Trọng Tuệ, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Thái, Tôn Đức Thắng, Nguyễn Thị Thập, Lê Quốc Thân, Lê Đức Thọ, Xuân Thuỷ, Nguyễn Văn Trân, Nguyễn Duy Trinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Xô, và 31 uỷ viên dự khuyết: Lý Ban, Nguyễn Thanh Bình, Phạm Thái Bường, Đinh Thị Cẩn, Nguyễn Thọ Chân, Lê Quang Đạo, Trần Độ, Nguyễn Đôn, Trần Quý Hai, Lê Hoàng, Trần Quang Huy, Võ Văn Kiệt, Hoàng Văn Kiểu, Nguyễn Khai, Nguyễn Hữu Khiếu, Lê Liêm, Ngô Minh Loan, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Hữu Mai, Hà Kế Tấn, Nguyễn Khánh Toàn, Hoàng Tùng, Trần Danh Tuyên, Lê Thành, Đinh Đức Thiện, Ngô Thuyền, Lê Toàn Thư, Trần Văn Trà, Bùi Công Trừng, Nguyễn Văn Vịnh, Nguyễn Trọng Vĩnh.
Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất đã bầu Bộ Chính trị gồm 11 uỷ viên chính thức: Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Hoàng Văn Hoan, và hai uỷ viên dự khuyết là Trần Quốc Hoàn và Văn Tiến Dũng.
Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng và Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội lần thứ III của Đảng thành công tốt đẹp là cơ sở cho "toàn Đảng và toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ thành một khối khổng lồ. Chúng ta sáng tạo. Chúng ta xây dựng. Chúng ta tiến lên".
Từ Đại hội lần thứ III đến Đại hội lần thứ IV của Đảng, nhân dân ta, Tổ quốc ta đã trải qua những thử thách cực kỳ nghiêm trọng. Chúng ta vừa chống lại cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn nhất và tàn bạo chưa từng có của đế quốc Mỹ và tay sai, vừa phải xây dựng và bảo vệ miền Bắc trong hoàn cảnh quốc tế vô cùng phức tạp. Đảng ta đứng ở trung tâm lãnh đạo và tổ chức cuộc chiến đấu cực kỳ vĩ đại đó. Đảng đã phát triển và cụ thể hoá Nghị quyết của Đại hội lần thứ III, giải đáp kịp thời những yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn chiến đấu và xây dựng Tổ quốc bằng nhiều Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị.
Tháng 11-1960, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ hai, thảo luận một số vấn đề quốc tế, chuẩn bị cho Đoàn đại biểu Đảng ta do Hồ Chí Minh dẫn đầu đi dự lễ kỷ niệm lần thứ 43 Cách mạng Tháng Mười Nga và dự Hội nghị đại biểu các Đảng cộng sản và công nhân thế giới họp ở Mátxcơva (12-1960).
Trước sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng miền Nam sau cao trào đồng khởi (1959-1960), tháng 1-1961, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp và ra Nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam. Bộ Chính trị nhận định: Thời kỳ tạm ổn định của chế độ Mỹ-Diệm đã qua và thời kỳ khủng hoảng liên tiếp, suy sụp nghiêm trọng đã bắt đầu, các hình thái du kích cục bộ, khởi nghĩa từng phần đã xuất hiện mở đầu cho một cao trào cách mạng ngày càng rộng lớn. Do lực lượng so sánh đã thay đổi, phải chuyển phương châm đấu tranh, đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị, tiến công địch bằng cả chính trị và quân sự, tiến hành đấu tranh chống địch trên cả ba vùng chiến lược (vùng rừng núi, vùng đồng bằng, vùng đô thị) thích hợp với lực lượng so sánh giữa ta và địch trên từng vùng. Bộ Chính trị nhấn mạnh sự cần thiết phải ra sức xây dựng mau chóng lực lượng chính trị và quân sự, tăng cường khối đoàn kết nhân dân miền Nam trong Mặt trận dân tộc giải phóng, phát động phong trào đấu tranh chính trị mạnh mẽ của quần chúng, tích cực tiêu diệt sinh lực địch, bảo tồn và phát triển lực lượng của ta, làm tan rã chính quyền và lực lượng địch trên một phạm vi ngày càng rộng lớn, tiến lên làm chủ rừng núi, giành lại toàn bộ đồng bằng, ra sức xây dựng cơ sở và đẩy mạnh đấu tranh chính trị ở đô thị, tạo điều kiện và nắm mọi thời cơ thuận lợi để đánh đổ chính quyền Mỹ - Diệm, giải phóng miền Nam.
Dưới ánh sáng của đường lối và phương châm đấu tranh do Ban Chấp hành Trung ương Đảng vạch ra, quân và dân ở miền Nam đã vượt qua những thử thách mới, tiếp tục tiến công địch trên tất cả ba vùng chiến lược cách mạng.
Miền Bắc chuyển sang thời kỳ lấy xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm, đồng thời tiếp tục hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới. Từ ngày 28-12-1960 đến ngày 6-1-1961, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ ba, kiểm điểm việc thực hiện kế hoạch nhà nước ba năm (1958-1960), thảo luận và quyết định nhiệm vụ kế hoạch nhà nước năm 1961.
Tháng 4-1961, Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định các nhiệm vụ và biện pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng chủ yếu về mặt tổ chức và chỉ đạo thực hiện, mở cuộc vận động xây dựng chi bộ và đảng bộ "bốn tốt".
Ban Chấp hành Trung ương Đảng liên tiếp mở các Hội nghị chuyên đề để cụ thể hoá đường lối phát triển kinh tế trong kế hoạch năm năm lần thứ nhất.
Hội nghị lần thứ năm (7-1961) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về phát triển nông nghiệp trong những năm 1961-1965, nhằm đẩy nông nghiệp tiến lên một cách nhanh, mạnh, làm cho nông nghiệp trở thành cơ sở vững chắc để phát triển công nghiệp.
Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 30-11 đến ngày 2-12-1961, nghe Báo cáo của Đoàn đại biểu Đảng ta dự Đại hội lần thứ XXII của Đảng Cộng sản Liên Xô.
Hội nghị lần thứ bảy (6-1962) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng bàn về vấn đề xây dựng và phát triển công nghiệp theo phương hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý. Phải ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với ưu tiên phát triển công nghiệp nặng; phát triển công nghiệp trung ương đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp địa phương, kết hợp xí nghiệp quy mô lớn với xí nghiệp quy mô vừa và nhỏ; kết hợp kỹ thuật hiện đại với kỹ thuật thô sơ.
Hội nghị lần thứ tám (5-1963) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng bàn về kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân năm năm lần thứ nhất (1961-1965), xác định phương hướng, nhiệm vụ, chỉ tiêu và biện pháp chủ yếu của kế hoạch này.
Tháng 12-1963, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ chín, vạch rõ phương hướng nỗ lực và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam.
Trên cơ sở đánh giá tương quan lực lượng giữa ta và địch, Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nhấn mạnh: "Chúng ta cần phải và có khả năng kiềm chế và thắng địch trong loại "Chiến tranh đặc biệt"... Tuy nhiên, ta phải luôn luôn nâng cao cảnh giác và tích cực chuẩn bị để sẵn sàng ứng phó nếu đế quốc Mỹ mạo hiểm mở rộng cuộc chiến tranh ở miền Nam thành "Chiến tranh cục bộ". Còn khả năng chiến tranh ở miền Nam biến thành chiến tranh thế giới thì hầu như không có, vì mục đích và vị trí của cuộc chiến tranh này không thể tạo ra những điều kiện để có thể phát triển thành chiến tranh thế giới".
Nghị quyết cũng vạch rõ: "Cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam hiện nay chủ yếu là một cuộc chiến tranh xâm lược và chống xâm lược, vì chính quyền phản cách mạng ở miền Nam dựa vào đế quốc Mỹ, thi hành chính sách thực dân xâm lược của Mỹ. Song vì đây là một cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa thực dân mới, cho nên đồng thời nó có tính chất nội chiến. Và chiến tranh xâm lược hay nội chiến phản cách mạng cũng đều nhằm phục vụ đường lối chính trị của đế quốc Mỹ, đều phục tùng sự chỉ đạo của chúng"...
"Do chủ trương của địch chống cách mạng miền Nam và do đặc điểm của cuộc đấu tranh của chúng ta, cho nên phương châm chiến lược chung của cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân miền Nam là chiến đấu lâu dài, dựa vào sức mình là chính; về phương châm đấu tranh thì kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang một cách linh hoạt tuỳ theo từng vùng và từng thời kỳ khác nhau"... "Quá trình thực hiện phương châm ấy cũng là quá trình tích cực chuẩn bị để tiến tới bước quyết định đánh đổ toàn bộ nền thống trị của địch ở miền Nam bằng tổng công kích và tổng khởi nghĩa... Quá trình tiến tới tổng công kích và tổng khởi nghĩa cũng là một quá trình tổng công kích cục bộ, khởi nghĩa từng phần, giằng co phức tạp, đánh lui địch từng bước, giành thắng lợi từng phần, tiến tới giành thắng lợi toàn bộ".
Nghị quyết còn nhấn mạnh trong lúc kiên trì chiến đấu lâu dài, phương hướng cố gắng của chúng ta là: "Cần tranh thủ thời cơ thuận lợi, tập trung lực lượng quyết tâm giành cho được những thắng lợi có tính chất quyết định trong mấy năm tới".
Hội nghị lần thứ chín của Ban Chấp hành Trung ương Đảng còn thảo luận và thông qua nghị quyết về nhiệm vụ quốc tế của Đảng. Nghị quyết phân tích đặc điểm tình hình thế giới, nội dung và tính chất của thời đại, về chiến lược và sách lược, về phương pháp đấu tranh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và nêu rõ trách nhiệm của Đảng phải bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, chống chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh, chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa biệt phái trong phong trào cộng sản quốc tế, tăng cường đoàn kết quốc tế, kiên quyết chống chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ, ủng hộ mạnh mẽ phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân thế giới.
Tháng 12-1964, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ mười bàn về công tác thương nghiệp và giá cả, vì đó là một khâu quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của miền Bắc nước ta. Hội nghị nhấn mạnh: "Trên cơ sở nền kinh tế đang phát triển từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, để tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, ... chúng ta phải đồng thời đẩy mạnh cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá; song phải tập trung sức thực hiện cách mạng kỹ thuật là then chốt".
Đến cuối 1964 đầu 1965, cuộc chiến tranh yêu nước ở miền Nam đã giành được những thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược. Để cứu vãn tình thế có thể bị thất bại hoàn toàn, đế quốc Mỹ đã đẩy cuộc chiến tranh đặc biệt ở miền Nam lên đến đỉnh cao và gây ra cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trước tình hình đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ mười một (đặc biệt), từ ngày 15 đến ngày 27-3-1965, ra Nghị quyết về Tình hình và nhiệm vụ cấp bách trước mắt. Nghị quyết nêu rõ đế quốc mỹ đã đẩy cuộc "Chiến tranh đặc biệt" của chúng ở miền Nam tới mức độ cao, bao gồm một số yếu tố của "Chiến tranh cục bộ", và chiến tranh đã vượt khỏi phạm vi miền Nam lan đến miền Bắc dưới hình thức ném bom, bắn phá bằng không quân. Tình hình cả nước đã có chiến tranh với hình thức và mức độ khác nhau ở mỗi miền. Trong cuộc chiến tranh cách mạng chống Mỹ xâm lược, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Trước tình hình đó, nhiệm vụ cơ bản của chúng ta là tích cực kiềm chế và thắng địch trong cuộc "Chiến tranh đặc biệt" ở mức cao nhất ở miền Nam, ra sức tranh thủ thời cơ, tập trung lực lượng của cả nước giành thắng lợi quyết định ở miền Nam trong thời gian tương đối ngắn, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng đối phó và quyết thắng cuộc "Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam, nếu địch gây ra; tiếp tục xây dựng miền Bắc, kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế và tăng cường quốc phòng, kiên quyết bảo vệ miền Bắc đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của địch. Nhiệm vụ cấp bách của miền Bắc là phải kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường quốc phòng, ra sức chi viện cho miền Nam...
Chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ phát triển đến mức cao nhất đã căn bản bị thất bại. Chúng liều lĩnh chuyển sang chiến lược "Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và đẩy mạnh cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc ác liệt hơn. Hội nghị lần thứ mười hai của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, họp tháng 12-1965, đã nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện tình hình chiến tranh do Mỹ gây ra, xác định nhiệm vụ phương châm chiến lược và những công tác trước mắt của cuộc kháng chiến. Nghị quyết nêu rõ: "Nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước hiện nay rõ ràng là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc ta, của nhân dân ta từ Nam chí Bắc... Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta ở cả hai miền phải giữ vững và nêu cao quyết tâm đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân chống Mỹ, cứu nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, kiên quyết chiến đấu cho đến thắng lợi cuối cùng".
"Phương châm chiến lược chung của chúng ta trong cuộc chiến tranh giải phóng chống Mỹ, cứu nước là đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính... Trên cơ sở tiếp tục quán triệt và vận dụng phương châm đánh lâu dài, chúng ta cần phải cố gắng đến cao độ, tập trung lực lượng của cả hai miền để tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam". Song vì đế quốc Mỹ là một kẻ địch hung bạo và ngoan cố, cho nên trong khi nỗ lực theo phương hướng đó, chúng ta vẫn phải ra sức chuẩn bị để thắng địch trong trường hợp chiến tranh kéo dài và mở rộng ra cả nước".
"Về phương châm đấu tranh, chúng ta tiếp tục kiên trì phương châm đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công... Trong giai đoạn hiện nay, đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ một vị trí ngày càng quan trọng".
Để hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng này của dân tộc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng kêu gọi: "Chúng ta đang tiến hành một cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại nhất trong lịch sử nước nhà, một cuộc chiến tranh cách mạng vừa để giải phóng dân tộc, vừa để bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa cống hiến vào sự nghiệp đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội... Trong giai đoạn lịch sử vinh quang này của Tổ quốc, mỗi cán bộ, đảng viên cũng như toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải có tinh thần chiến đấu cao, cũng cảm phi thường, phải có chí khí anh hùng và quyết tâm dời non lấp biển, đạp bằng bất cứ trở lực nào, hoàn thành bất cứ nhiệm vụ nào, đánh bại bất cứ kẻ thù nào".
Thực hiện nghị quyết của Hội nghị lần thứ mười một và mười hai của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, quân và dân ta đã giành được những thắng lợi to lớn về mọi mặt. Tháng 1-1967, Hội nghị lần thứ mười ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết Về đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch, phục vụ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Trung ương Đảng chủ trương: "Đi đôi với đấu tranh quân sự và chính trị ở miền Nam, ta cần tiến công địch về mặt ngoại giao, phối hợp với hai mặt đấu tranh đó để giành thắng lợi to lớn hơn nữa". "Đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, mà trong tình hình quốc tế hiện nay, với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động".
Theo dõi và chỉ đạo cuộc chiến đấu của quân và dân ta ở miền Nam, sự chuyển biến to lớn của tương quan lực lượng so sánh giữa ta và địch, Hội nghị lần thứ mười bốn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tháng 1-1968, nhận định: "Chúng ta đang đứng trước triển vọng và thời cơ chiến lược lớn... Ta đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi, địch đang ở thế thua, thế bị động và khó khăn. Tình hình ấy cho phép ta chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định"1 . Trong thời kỳ mới này, Đảng chủ trương đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định với các mục tiêu:
- Tiêu diệt và làm tan rã tuyệt đại bộ phận quân nguỵ, đánh đổ nguỵ quyền các cấp, giành chính quyền về tay nhân dân.
- Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch và phương tiện chiến tranh của Mỹ, làm cho quân Mỹ không thực hiện được các nhiệm vụ quân sự, chính trị của chúng ở Việt Nam.
- Trên cơ sở đó, đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền Bắc, còn ta thì bảo vệ được miền Bắc và đạt được những mục tiêu trước mắt của cách mạng miền Nam là độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà.
Cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa sẽ là một giai đoạn, một quá trình tiến công chiến lược rất mãnh liệt và phức tạp.
Hội nghị vạch ra những nhiệm vụ cụ thể về công tác quân sự, chính trị về nguỵ và địch vận, về hoạt động quốc tế, về nhiệm vụ của miền Bắc để thực hiện tổng công kích và tổng khởi nghĩa.
Chủ trương chiến lược của Hội nghị lần thứ mười bốn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã được triển khai, mở đầu bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân của ta như một đòn sấm sét đối với bọn trùm xâm lược Mỹ, làm choáng váng cả nước Mỹ và chấn động dư luận thế giới.
Bằng cuộc tổng tiến công chiến lược này, ta đã giáng một đòn quyết định vào chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, buộc chúng dù rất ngoan cố và dù còn gây cho ta nhiều khó khăn, vẫn phải bắt đầu quá trình xuống thang chiến tranh, phải chuyển sang chiến lược "phi Mỹ hoá chiến tranh" rồi "Việt Nam hoá chiến tranh", phải bắt đầu rút dần quân Mỹ về nước, chấm dứt cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc, phải cử người đàm phán với Chính phủ ta ở Hội nghị Pari.
Tuy nhiên, qua thực tiễn của cuộc chiến đấu cho thấy ta cũng mắc một số khuyết điểm như "chủ quan trong việc đánh giá tình hình, cho nên ta đã đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúc đó; nhất là sau đợt tiến công Tết Mậu Thân ta đã không kịp thời kiểm điểm và rút kinh nghiệm ngay nhằm đánh giá lại tình hình và có chủ trương chuyển hướng kịp thời; ta chậm thấy những cố gắng mới của địch, những khó khăn lúc đó của ta,... cho nên ta đã gặp khó khăn trong một thời gian".
Từ ngày 28 đến ngày 31-8-1968, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ mười lăm để đánh giá tình hình trên chiến trường miền Nam, quyết định tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích tiến lên giành thắng lợi quan trọng hơn nữa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Tháng 5-1969, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ mười sáu bàn về tình hình và nhiệm vụ đấu tranh trên mặt trận ngoại giao.
Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đang đi vào giai đoạn mới thì lúc 9 giờ 47 phút ngày 2-9-1969, Hồ Chí Minh qua đời. Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một bản Di chúc vô cùng quý báu. Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị toàn thể khẩn cấp (Hội nghị lần thứ mười bảy) tại Hà Nội. Trung ương Đảng đã ra lời kêu gọi gửi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, đồng bào cả nước và kiều bào ở nước ngoài. Ngày 9-9-1969, tại Quảng trường Ba Đình, trước hơn 10 vạn người dự lễ truy điệu trọng thể Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẩn đã đọc bản Di chúc của Người và Điếu văn của Trung ương, trong đó có năm lời thề son sắt của toàn Đảng, toàn dân ta quyết thực hiện những lời căn dặn của Người.
Tháng 1-1970, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ mười tám kiểm điểm sự phát triển của cục diện chiến tranh từ đầu xuân Mậu Thân, đề ra nhiệm vụ trước mắt của giai đoạn mới là kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, tiếp tục phát triển chiến lược tiến công toàn diện nhằm đánh bại âm mưu "Việt Nam hoá chiến tranh", đánh cho Mỹ phải rút hết quân, đánh cho nguỵ phải suy sụp...
Tháng 1-1971, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ mười chín chủ yếu bàn về phương hướng, nhiệm vụ khôi phục, phát triển kinh tế, đặc biệt là nhiệm vụ sản xuất nông nghiệp ở miền Bắc. Hội nghị khẳng định phải cố gắng đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp nhằm tạo nên một bước chuyển biến mạnh mẽ theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, phát triển nông nghiệp toàn diện.
Tháng 4-1972, Hội nghị lần thứ hai mươi của Ban Chấp hành Trung ương Đảng bàn về quản lý kinh tế, một trong những công tác cấp bách và quan trọng của Đảng và Nhà nước. Phương hướng cơ bản của việc cải tiến quản lý kinh tế là xoá bỏ quản lý hành chính cung cấp, thực hiện quản lý theo phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa, khắc phục cách tổ chức quản lý thủ công, phân tán, xây dựng cách tổ chức quản lý của nền công nghiệp lớn nhằm thúc đẩy quá trình đưa nền kinh tế từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Thắng lợi về quân sự, chính trị và ngoại giao của ta đã dẫn đến việc ký Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam. Song, ở miền Nam, đế quốc Mỹ và tay sai vẫn không chịu từ bỏ dã tâm áp đặt chủ nghĩa thực dân mới của chúng. Trước tình hình đó, tháng 7-1973, Hội nghị lần thứ hai mươi mốt của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nhiệm vụ trước mắt là đẩy mạnh đấu tranh trên cả ba mặt chính trị, quân sự và ngoại giao một cách chủ động, linh hoạt tuỳ từng lúc từng nơi để buộc địch phải thi hành nghiêm chỉnh hiệp định đã ký, không ngừng giữ vững và phát triển lực lượng cách mạng về mọi mặt, thắng địch từng bước và chủ động trong mọi tình huống, đưa cách mạng miền Nam tiếp tục tiến lên. Hội nghị nhấn mạnh: con đường cách mạng miền Nam là con đường cách mạng bạo lực. Bất kể trong tình hình nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công. Vấn đề giành dân, giành quyền làm chủ, phát triển thực lực của cách mạng là yêu cầu vừa bức thiết vừa cơ bản trong giai đoạn mới.
Tháng 12-1973, Đảng họp Hội nghị lần thứ hai mươi hai, xác định nhiệm vụ của miền Bắc là đoàn kết toàn dân, đấu tranh giữ vững hoà bình, ra sức tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh ba cuộc cách mạng, xây dựng miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, kết hợp kinh tế với quốc phòng, nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, ra sức làm tròn nghĩa vụ của mình trong cuộc đấu tranh nhằm hoàn thành độc lập, dân chủ ở miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc, làm tròn nhiệm vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và Campuchia, Hội nghị đã thông qua kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế của miền Bắc trong hai năm (1974-1975) và nêu lên những biện pháp chỉ đạo các ngành, các địa phương ra sức thực hiện kế hoạch này.
Năm 1974, ở miền Nam, quân ta đã liên tiếp đánh bại các cuộc hành quân lấn chiếm của địch, thực hiện chiến lược tiến công. Miền Bắc tích cực khôi phục kinh tế và chi viện mạnh mẽ cho miền Nam. Nguỵ quân, nguỵ quyền suy yếu nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, Bộ Chính trị trong các kỳ họp tháng 10-1974, tháng 12-1974 và tháng 1-1975, đã đi đến kết luận chúng ta đang đứng trước thời cơ lớn, có đầy đủ các điều kiện về quân sự và chính trị để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất đất nước. Do đó, Bộ chính trị đã hạ quyết tâm chiến lược là "Động viên nỗ lực lớn nhất của quân và dân cả hai miền thực hiện kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975-1976, đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng và toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta, tiến hành rất khẩn trương và hoàn thành công tác chuẩn bị mọi mặt, tạo điều kiện chín muồi, tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và làm tan rã nguỵ quân, đánh đổ nguỵ quyền từ trung ương đến địa phương, giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam Việt Nam...". Bộ chính trị nêu rõ phải phát huy sức mạnh tổng hợp của tiến công quân sự, tiến công chính trị, tiến công binh vận kết hợp với tiến công ngoại giao. Song vì đây là một cuộc chiến tranh cách mạng đang diễn ra quyết liệt với quy mô lớn, nên cần nắm vững quy luật của chiến tranh là phải tiêu diệt và làm tan rã lực lượng quân sự của địch, bao gồm cả sinh lực và phương tiện chiến tranh, nhất là quân chủ lực, chỗ dựa cuối cùng của chính quyền phát xít tay sai đế quốc Mỹ. Ngoài kế hoạch chiến lược cơ bản giành thắng lợi trong hai năm, Bộ Chính trị còn có phương án chớp thời cơ để giải phóng miền Nam trong năm 1975. Nghị quyết lịch sử của Bộ Chính trị năm 1974 và đầu năm 1975 là một điển hình của tư duy cách mạng khoa học và sáng tạo lớn, dắt dẫn quân và dân ta đến mùa Xuân đại thắng năm 1975.
Song song với sự lãnh đạo và tổ chức cuộc chiến đấu ở miền Nam và xây dựng ở miền Bắc, Trung ương Đảng rất coi trọng công tác xây dựng Đảng. Tháng 12-1974, Hội nghị lần thứ hai mươi ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra nghị quyết tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Nghị quyết nêu rõ: "Sự tiến triển mạnh mẽ của cách mạng nước ta, sự trưởng thành của chế độ và của nhân dân ta, yêu cầu ngày càng cao và tính chất phức tạp của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, của cuộc đấu tranh để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà, tác động hàng ngày của cuộc đấu tranh quyết liệt giữa các lực lượng phản cách mạng trên thế giới vào nước ta- đó là những nhân tố khách quan đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và nâng cao sức chiến đấu của Đảng". "Để Đảng ta tiếp tục làm tròn nhiệm vụ trước dân tộc và trước phong trào cộng sản quốc tế, phải tăng cường công tác xây dựng Đảng, đảm bảo cho Đảng ta luôn luôn nắm vững và vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện mới của cách mạng nước ta, có đường lối, chính sách đúng, có tư tưởng cách mạng triệt để, có tổ chức vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện đầy đủ, xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân".
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã toàn thắng, miền Nam hoàn toàn được giải phóng. Non sông thu về một mối. Tháng 9 - 1975, Hội nghị lần thứ hai mươi bốn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra nhiệm vụ hoàn thành thống nhất Tổ quốc và đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiễn vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết nhấn mạnh: Thống nhất đất nước vừa là nguyện vọng tha thiết bậc nhất của nhân dân cả nước vừa là quy luật khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam. Từ nay, Tổ quốc ta từ Lạng Sơn đến Cà Mau, từ đất liền đến hải đảo vĩnh viễn độc lập, thống nhất trên cơ sở chủ nghĩa xã hội. Thống nhất đất nước tạo ra sức mạnh mới, thuận lợi mới để phát triển kinh tế, văn hoá, củng cố quốc phòng và tăng cường ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế, vì vậy, thống nhất càng sớm, thì càng phát huy nhanh sức mạnh toàn diện của Tổ quốc. Nghị quyết cũng nêu lên các nhiệm vụ đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và các nhiệm vụ trước mắt ở miền Nam để nhanh chóng ổn định tình hình, sớm cùng miền Bắc đi vào quỹ đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Ngày 25-4-1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khoá VI đã thành công. Tại kỳ họp đầu tiên tháng 6-1976, Quốc hội khoá VI đã long trọng tuyên bố hoàn thành thống nhất nước nhà về mặt nhà nước và quyết định lấy tên nước là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Từ ngày 24-9 đến ngày 24-10-1976, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ hai mươi lăm để thảo luận Dự thảo các văn kiện và tổ chức nhân sự chuẩn bị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng.