Niên biểu toàn khoá (Đại hội Đảng Lần thứ II)
Địa điểm: Xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang
Số lượng đảng viên trong cả nước:766.349
Số lượng tham dự Đại hội: 158 đại biểu
Chủ tịch Đảng được bầu tại Đại hội: Chủ tịch Hồ Chí Minh
Tổng bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Trường Chinh
Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại đại hội gồm 29 uỷ viên và Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội gồm 7 uỷ viên.
Nhiệm vụ chính: Đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn.
Sau 15 năm, 8 tháng kể từ Đại hội Đảng lần thứ nhất, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II họp từ ngày 11 đến 19-2-1951 tại xã Vinh Quang, Chiêm Hoá, Tuyên Quang.
Có 158 đại biểu chính thức, 53 đại biểu dự khuyết thay mặt cho 766.000 đảng viên. Đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Thái Lan.
Từ năm1930 đến nay, Đảng Cộng sản Đông Dương là người tổ chức và lãnh đạo cách mạng của cả ba nước Việt Nam, Lào, Cam Pu Chia. Đến nay, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước có những thay đổi khác nhau. Mỗi nước cần và có thể thành lập một chính đảng cách mạng theo chủ nghĩa Mác-Lênin. Đại hội quyết định tổ chức Đảng Lao Động Việt Nam và đưa Đảng ra hoạt động công khai.
Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 19 uỷ viên chính thức và 10 uỷ viên dự khuyết. Bộ Chính trị của Trung ương Đảng gồm có 7 uỷ viên chính thức và một uỷ viên dự khuyết. Chủ tịch Đảng là Hồ Chí Minh. Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam là Trường Chinh. Đây là lần đầu tiên Ban Chấp hành Trung ương được bầu hợp thức trong một Đại hội đại biểu toàn quốc.
Sau chiến thắng Điện Biên phủ vĩ đại (7-1954), Hiệp định về lập lại hoà bình ở Đông Dương đã được ký kết tại Hội nghị Giơ ne vơ. Miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng
Đến trước Đại hội Đảng lần thứ III, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp 18 lần để quyết định các vấn đề quan trọng của Đảng và Nhà nước ta; trong đó có vấn đề phát động giảm tô-cải cách ruộng đất, sửa sai cải cách tượng đất, cải tạo XHCN ở miền Bắc, xác định đế quốc Mỹ là kẻ thù chính, cách mạng ở Miền nam và cuộc đấu tranh giành thống nhất đất nước...
Kể từ Đại hội lần thứ I của Đảng đến Đại hội lần thứ II đã trải qua 15 năm. Biết bao biến đổi đã diễn ra trên thế giới và Đông Dương. Cách mạng và kháng chiến của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược và đang tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Thực tiễn phong phú của cách mạng đòi hỏi Đảng phải tổng kết, khẳng định và bổ sung hoàn chỉnh về đường lối. Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Đông Dương là người tổ chức và lãnh đạo cách mạng của cả ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Ngày nay tình hình xã hội, kinh tế, chính trị của mỗi nước có những thay đổi khác nhau. Cách mạng và kháng chiến của mỗi nước cũng có những bước phát triển riêng biệt. Tình hình đó đang đòi hỏi mỗi nước cần phải và có thể thành lập một chính đảng cách mạng theo chủ nghĩa Mác - Lênin, trực tiếp đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử trước dân tộc mình và chủ động góp phần vào sự nghiệp cách mạng chung của nhân dân ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng được triệu tập nhằm đáp ứng những đòi hỏi bức thiết đó.
Đại hội họp tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang. Đại hội đã họp 19 ngày. Trong những ngày họp trù bị, Đại hội đã thảo luận, bổ sung dự thảo Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương. Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Đại hội trù bị - Người chỉ rõ: "Đại hội ta là Đại hội kháng chiến. Nhiệm vụ chính của Đại hội ta là đẩy kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng Đảng Lao động Việt Nam. Vậy việc thảo luận cần đặt trọng tâm vào hai việc đó". Đại hội họp công khai từ ngày 11 đến ngày 19 tháng 2-1951. Dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức, 53 đại biểu dự khuyết thay mặt cho hơn 766.000 đảng viên trong toàn Đảng. Đến dự Đại hội còn có đại biểu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Thái Lan.
Sau diễn văn khai mạc của Tôn Đức Thắng, Đại hội đã nghiên cứu và thảo luận Báo cáo chính trị của Hồ Chí Minh, Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam của Trường Chinh, Báo cáo về tổ chức và Điều lệ Đảng của Lê Văn Lương và Báo cáo bổ sung về Mặt trận dân tộc thống nhất, chính quyền dân chủ nhân dân, Quân đội nhân dân, kinh tế tài chính và về văn nghệ. Ngoài ra còn một số tham luận khác.
Báo cáo chính trị đã khái quát những chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước những năm nửa đầu thế kỷ XX, dự báo những triển vọng tốt đẹp của nửa thế kỷ sau. Về quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng trong 20 năm qua, Báo cáo đã khẳng định những thắng lợi to lớn của cách mạng, kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng và những bài học kinh nghiệm của các thời kỳ vận động cách mạng của Đảng. Thắng lợi của cách mạng và kháng chiến đã khẳng định đường lối, chính sách của Đảng nói chung là đúng; cán bộ, đảng viên của Đảng là những chiến sĩ dũng cảm, tận tuỵ hy sinh, được quần chúng tin yêu... Song chúng ta có những khuyết điểm cần sửa chữa như học tập chủ nghĩa Mác - Lênin còn yếu, tư tưởng cán bộ chưa vững vàng, công tác tổ chức, lề lối làm việc còn chủ quan, quan liêu, mệnh lệnh, hẹp hòi, công thần. Để khắc phục những bệnh trên, Đảng phải tìm cách giáo dục, phổ biến chủ nghĩa Mác - Lênin để nâng cao tư tưởng chính trị cho đảng viên, củng cố mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng, đề cao tinh thần kỷ luật, tính nguyên tắc của đảng viên, mở rộng phong trào phê bình và tự phê bình ở trong Đảng, ở các cơ quan đoàn thể, trên báo chí cho đến nhân dân một cách thường xuyên, thiết thực, dân chủ và phải có sự kiểm tra chặt chẽ.
Căn cứ vào sự phân tích cụ thể tình hình thế giới và trong nước, báo cáo nêu lên khẩu hiệu chính của ta là tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành thống nhất độc lập hoàn toàn, bảo vệ hoà bình thế giới.
Bản báo cáo cũng nêu lên mấy nhiệm vụ chính trong nhiệm vụ mới của chúng ta:
1. Đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
2. Tổ chức Đảng Lao động Việt Nam.
Để thực hiện nhiệm vụ thứ nhất, cần phải đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân về mọi mặt, củng cố và phát triển Mặt trận dân tộc thống nhất; phát huy tinh thần yêu nước và đẩy mạnh thi đua ái quốc, triệt để giảm tô, giảm tức, tịch thu ruộng đất của thực dân và Việt gian chia cho dân cày nghèo, bảo vệ nền tảng kinh tế tài chính của ta, đấu tranh kinh tế với địch, thực hiện công bằng hợp lý về thuế khoá; tích cực giúp đỡ cuộc kháng chiến của Cao Miên và Lào, tiến tới thành lập Mặt trận thống nhất Việt - Miên - Lào, v.v..
Muốn làm tròn nhiệm vụ trên, cần phải có một Đảng hoạt động công khai, tổ chức phải phù hợp với tình hình thế giới và trong nước để lãnh đạo toàn dân kháng chiến đến thắng lợi. Đảng đó lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam. Mục đích trước mắt của Đảng là đoàn kết và lãnh đạo toàn dân kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến đến chủ nghĩa xã hội.
Đảng Lao động Việt Nam phải là một đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để. Trong giai đoạn này quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì vậy, Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là đảng của dân tộc Việt Nam.
Sau khi thảo luận Báo cáo chính trị của Hồ Chí Minh, Đại hội đã thông qua Nghị quyết khẳng định: Đường lối đoàn kết toàn dân, kháng chiến trường kỳ giành độc lập, dân chủ là hoàn toàn đúng, Đảng cần kiện toàn thêm sự lãnh đạo kháng chiến, tập trung lực lượng lớn hơn nữa để đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn; phải xây dựng Đảng Lao động Việt Nam có chính cương, điều lệ thích hợp với hoàn cảnh Việt Nam và sẽ xây dựng những tổ chức cách mạng thích hợp với hoàn cảnh của Cao Miên và Lào...
Báo cáo bàn về cách mạng Việt Nam của Trường Chinh đã trình bày toàn bộ đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Mặc dù ba dân tộc Việt Nam, Lào, Cao Miên cùng ở trên bán đảo Đông Dương, cùng đấu tranh chống kẻ thù chung, có một lịch sử đấu tranh cách mạng gắn bó mật thiết với nhau, song tình hình mới đòi hỏi phải đặt vấn đề cách mạng mỗi nước khác nhau cho nên Trường Chinh chỉ trình bày trước Đại hội về vấn đề cách mạng Việt Nam. Còn cách mạng Lào và cách mạng Cao Miên sẽ được nêu ra trong một báo cáo khác.
Báo cáo về vấn đề cách mạng Việt Nam đã phân tích tính chất của xã hội Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến chống Pháp là một xã hội phát triển không đều, một xã hội có ba tính chất: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến. Trong lòng xã hội ấy chứa chất những mâu thuẫn sau: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc xâm lược; mâu thuẫn giữa số đông nhân dân với địa chủ phong kiến; mâu thuẫn giữa lao động với tư bản trong nước. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược là chính. Nó đang diễn ra dưới hình thức quyết liệt là chiến tranh. Cho nên, đối tượng chính của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa đế quốc và thế lực phong kiến. Kẻ thù cụ thể trước mắt của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa đế quốc xâm lược (thực dân Pháp, can thiệp Mỹ) và bù nhìn Việt gian phản nước đại biểu quyền lợi cho đại địa chủ, phong kiến phản động và tư sản mại bản. Kẻ thù số một của cách mạng Việt Nam hiện nay là chủ nghĩa đế quốc xâm lược. "Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là tiêu diệt bọn đế quốc xâm lược, đánh đổ bọn bù nhìn Việt gian phản nước, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất; xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến làm cho người cày có ruộng; phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nhiệm vụ phản đế và nhiệm vụ phản phong kiến khăng khít với nhau. Lúc này phải tập trung mọi lực lượng để kháng chiến, đặng hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc... Nhiệm vụ phản phong kiến nhất định phải làm đồng thời với nhiệm vụ phản đế, nhưng làm có kế hoạch, từng bước một, để vừa đoàn kết kháng chiến, vừa bồi dưỡng lực lượng cách mạng đặng mau tiêu diệt bọn đế quốc xâm lược, hoàn thành giải phóng dân tộc".
Phân tích thái độ các giai cấp trong xã hội Việt Nam đối với các nhiệm vụ cách mạng, bản báo cáo sắp xếp lực lượng cách mạng ở Việt Nam là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản, rồi đến giai cấp tư sản dân tộc. Ngoài ra là những cá nhân thân sĩ, địa chủ yêu nước và tiến bộ hiện đứng vào hàng ngũ nhân dân. Những giai cấp đó hợp thành nhân dân, mà công nông là nền tảng. Động lực của cách mạng Việt Nam là nhân dân, chủ yếu là công nông. Giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam là giai cấp công nhân. Nông dân là bạn đồng minh trung thành và lớn mạnh nhất của giai cấp công nhân. Tiểu tư sản là bạn đồng minh tin cậy được. Tư sản dân tộc là bạn đồng minh có điều kiện.
Cuộc cách mạng nhằm đánh đổ đế quốc và phong kiến, do nhân dân làm động lực và giai cấp công nhân lãnh đạo, là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của nước ta phải trải qua một thời gian dài gồm nhiều giai đoạn. Thời gian dài đó tuỳ theo sự thay đổi nhiệm vụ chiến lược của cách mạng, tuỳ theo những biến hoá trong hàng ngũ kẻ thù và bạn đồng minh của giai cấp công nhân mà chia ra nhiều giai đoạn. Lênin nói: ... không qua nhiều bước quá độ, nhiều trình độ khác nhau thì không thể biến cách mạng ấy (tức cách mạng dân chủ tư sản) ở một nước lạc hậu thành cách mạng xã hội chủ nghĩa được...
"Trong hoàn cảnh chính quyền dân chủ nhân dân tồn tại và được củng cố, những giai đoạn cách mạng sẽ kế tục nhau một cách thuận lợi".
"Giai đoạn thứ nhất hiện nay là một cuộc bùng nổ cách mạng kéo dài (kháng chiến). Những giai đoạn sau có thể là những quá trình cải cách vừa ôn hoà, vừa bạo lực dưới chính quyền dân chủ nhân dân... Sau khi đánh bại bọn đế quốc xâm lược, chính quyền nhân dân sẽ có thể và phải thi hành một loạt cải cách mạnh bạo, hay nói cho đúng hơn, một loạt cải biến cách mạng dựa trên sự ủng hộ nhiệt liệt của quần chúng nhân dân lao động. Dưới chính quyền nhân dân, do giai cấp công nhân lãnh đạo, nhiều cuộc cải biến tiếp tục và lần lần, cộng lại cũng dẫn đến kết quả quan trọng ngang như một cuộc cách mạng".
"Sau khi chủ nghĩa đế quốc xâm lược bị tiêu diệt và những di tích phong kiến, nửa phong kiến bị xoá bỏ thì nhất định kinh tế quốc dân sẽ phát triển mạnh. Hai nhân tố kinh tế, nhân tố tư bản chủ nghĩa và nhân tố xã hội chủ nghĩa... lúc đó sẽ đồng thời nảy nở. Song nước Việt Nam sẽ không qua một thời đại phát triển tư bản êm đềm mà phát triển trong cuộc đấu tranh giữa hai nhân tố nói trên. Vì có chính quyền nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, nên nhân tố xã hội chủ nghĩa sẽ thắng nhân tố tư bản chủ nghĩa... Tóm lại, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của nước ta sẽ quanh co và dài. Không thể nói đến triệt để cải tạo xã hội, xoá bỏ chế độ người bóc lột người một lúc" .
Báo cáo nêu ra 12 chính sách của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân: 1- Đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, tiêu diệt bọn đế quốc xâm lược và bè lũ tay sai, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất; 2- Thi hành từng bước chính sách ruộng đất, xoá bỏ các hình thức bóc lột phong kiến và nửa phong kiến; 3- Xây dựng, củng cố và phát triển chế độ dân chủ nhân dân về chính trị, kinh tế và văn hoá, chuẩn bị tiến lên giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa; 4- Củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc xâm lược; 5- Xây dựng và phát triển quân đội nhân dân; 6- Xây dựng chính sách dân tộc; 7- Chính sách đối với tôn giáo; 8- Chính sách đối với vùng tạm bị chiếm; 9- Chính sách đối với ngoại kiều; 10- Chính sách đối ngoại; 11- Ra sức ủng hộ cách mạng Lào và Miên; 12- Tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, dân chủ và độc lập dân tộc của nhân dân thế giới.
Bản Báo cáo dành một phần quan trọng nói về công tác xây dựng Đảng.
Đại hội đã quyết nghị đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên gọi mới là Đảng Lao động Việt Nam, thông qua Chính cương, Tuyên ngôn và Điều lệ mới của Đảng.
Bản Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam gồm: 3 chương. Chương I: Thế giới và Việt Nam; chương II: Xã hội Việt Nam và cách mạng Việt Nam; chương III: Chính sách của Đảng Lao động Việt Nam.
Về cách mạng Việt Nam, Chính cương nêu rõ:
"Hiện nay cách mạng Việt Nam phải giải quyết mâu thuẫn giữa chế độ dân chủ nhân dân Việt Nam và những thế lực phản động, khiến cho chế độ ấy phát triển mạnh mẽ và thuận chiều tiến lên chủ nghĩa xã hội...
Thế lực phản động chính đang ngăn cản sự phát triển của xã hội Việt Nam là chủ nghĩa đế quốc xâm lược. Những di tích phong kiến cũng làm cho xã hội Việt Nam đình trệ. Do đó cách mạng Việt Nam có hai đối tượng. Đối tượng chính hiện nay là chủ nghĩa đế quốc xâm lược cụ thể lúc này là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Đối tượng phụ hiện nay là phong kiến, cụ thể lúc này là phong kiến phản động...
Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.
Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Song nhiệm vụ chính trước mắt là hoàn thành giải phóng dân tộc. Cho nên lúc này phải tập trung lực lượng vào việc kháng chiến để quyết thắng quân xâm lược.
Động lực của cách mạng Việt Nam lúc này là công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức và tư sản dân tộc; ngoài ra là những thân sĩ (địa chủ), yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó hợp thành nhân dân. Nền tảng của nhân dân là công, nông và lao động trí thức. Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân...
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam nhất định sẽ đưa Việt Nam tiến tới chủ nghĩa xã hội... Đó là một con đường đấu tranh lâu dài, đại thể trải qua ba giai đoạn: giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc; giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội...
Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau, mà mật thiết liên hệ xen kẽ với nhau. Nhưng mỗi giai đoạn có một nhiệm vụ trung tâm, phải nắm vững nhiệm vụ trung tâm đó để tập trung lực lượng vào đó mà thực hiện".
Điều lệ mới của Đảng gồm có phần mục đích và tôn chỉ, 13 chương và 71 điều. Điều lệ xác định rõ mục đích của Đảng là phấn đấu để "phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả dân tộc đa số, thiểu số Việt Nam". Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động Việt Nam, Đảng lấy chủ nghĩa Mác -Lênin làm nền tảng tư tưởng và xây dựng Đảng theo nguyên tắc một đảng vô sản kiểu mới. Điều lệ đã nêu ra những quy định chặt chẽ về việc kết nạp đảng viên, về nhiệm vụ học tập lý luận của đảng viên, về chế độ đề cao kỷ luật và dân chủ trong Đảng và việc khuyến khích giúp đỡ quần chúng phê bình chủ trương chính sách của Đảng, phê bình cán bộ, đảng viên.
Bản Điều lệ mới do Đại hội thông qua là một bước tiến mới trong công tác xây dựng Đảng. Đây là một trong những cơ sở để tăng thêm sức mạnh đoàn kết chiến đấu và tính tiên phong cách mạng của Đảng Lao động Việt Nam. Song, Điều lệ mới đã đưa cả lý luận của Xtalin và tư tưởng của Mao Trạch Đông làm "nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng", và đảng viên cũng phải học tập cả lý luận của Xtalin và tư tưởng của Mao Trạch Đông nhằm nâng cao trình độ chính trị và trau dồi tư tưởng. Đây là một khuyết điểm có tính chất giáo điều rập khuôn về phương hướng xây dựng tư tưởng của Đảng.
Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 19 uỷ viên chính thức: Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Nguyễn Chí Thanh, Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Phan Đình Khải (Thọ), Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Chu Văn Tấn, Tôn Đức Thắng, Lê Văn Lương, Trần Đăng Ninh, Hoàng Văn Hoan, Trần Quốc Hoàn, Lê Thanh Nghị, Nguyễn Duy Trinh, Phạm Hùng, Ung Văn Khiêm; và 10 uỷ viên dự khuyết: Nguyễn Khang, Nguyễn Văn Trân, Hà Huy Giáp, Hồ Viết Thắng, Văn Tiến Dũng, Tố Hữu, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Văn Kỉnh, Nguyễn Chánh, Hoàng Anh. Ban Chấp hành đã cử ra Bộ Chính trị gồm có bảy uỷ viên chính thức: Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Hoàng Quốc Việt, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí Thanh và một uỷ viên dự khuyết là Lê Văn Lương. Chủ tịch Đảng là Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư là Trường Chinh.
Đây là lần đầu tiên Ban Chấp hành Trung ương của Đảng được bầu hợp thức trong một Đại hội có đầy đủ đại biểu toàn quốc. Ban Chấp hành Trung ương là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng giữa hai kỳ đại hội, chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đại hội, bổ sung thêm các chủ trương chính sách mới cho thích hợp với những biến đổi mới của tình hình, để biến nghị quyết của Đại hội thành hiện thực đưa kháng chiến đến thắng lợi.
Trong quá trình chấp hành Nghị quyết Đại hội lần thứ II của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương đã tiếp tục giải quyết nhiều vấn đề do yêu cầu thực tiễn của cuộc kháng chiến đề ra trên tất cả các mặt.
Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tháng 3-1951, nhằm giải quyết các nhiệm vụ kinh tế, tài chính để bồi dưỡng sức dân và cung cấp cho quân đội.
Hội nghị lần thứ hai của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 27-9 đến ngày 5-10-1951, đã ra nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ chung, về công tác củng cố nội bộ, về nhiệm vụ kinh tế, tài chính trước mắt... Đặc biệt, Hội nghị đã kiểm điểm, đánh giá, xác định nhiệm vụ và phương châm công tác vùng tạm bị chiếm nhằm đưa phong trào đấu tranh của nhân dân vùng sau lưng địch tiến lên kịp với đà phát triển chung của cuộc kháng chiến.
Hội nghị lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, họp từ ngày 22 đến ngày 28-4-1952 đã đặt ra bốn nhiệm vụ chính: đẩy mạnh sản xuất; đẩy mạnh đấu tranh vùng sau lưng địch; nâng cao sức chiến đấu của quân đội và xây dựng Đảng. Đảng coi công tác chỉnh đảng chỉnh quân là công tác trung tâm về xây dựng Đảng và xây dựng quân đội. Hội nghị này có ý nghĩa rất to lớn trong việc tăng cường sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với kháng chiến.
Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 25 đến ngày 30-1-1953, đã kiểm điểm về thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng và đi đến quyết định: "Thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng: tiêu diệt chế độ sở hữu ruộng đất của thực dân Pháp và của bọn đế quốc xâm lược khác ở Việt Nam, xoá bỏ chế độ phong kiến sở hữu ruộng đất của địa chủ Việt Nam và ngoại kiều, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân". Để chuẩn bị tiến tới cải cách ruộng đất, trong năm 1953 chúng ta phải phóng tay phát động quần chúng nông dân triệt để giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công, ruộng của đế quốc và Việt gian cho dân nghèo.
Giữa lúc cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954 bắt đầu được triển khai, Hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp vào trung tuần 11-1953 và Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất cuả Đảng đã họp từ ngày 14 đến ngày 23 tháng 11-1953 bàn về nhiệm vụ cải cách ruộng đất. Tại Hội nghị toàn quốc của Đảng, Hồ Chí Minh đã đọc báo cáo Tình hình trước mắt và nhiệm vụ cải cách ruộng đất và Trường Chinh đọc báo cáo về Thực hiện cải cách ruộng đất, đẩy mạnh kháng chiến và phát triển sản xuất.
Hội nghị quyết định phát động quần chúng triệt để giảm tô và tiến hành cải cách ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu: "Người cày có ruộng" trong kháng chiến, thông qua Cương lĩnh ruộng đất của Đảng. Cương lĩnh xác định:
"Để cải thiện đời sống của nông dân, để đẩy mạnh kháng chiến, đánh đuổi đế quốc Pháp, can thiệp Mỹ, đánh đổ nguỵ quyền hoàn toàn giải phóng dân tộc...
Để giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, mở đường cho công thương nghiệp phát triển, lợi cho kháng chiến và kiến quốc...
Cần phải xóa bỏ quyền chiếm hữu ruộng đất của đế quốc ở Việt Nam, xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất của nông dân, thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng".
Để thực hiện cải cách ruộng đất phải phát động quần chúng theo đường lối của Đảng ở nông thôn: "Dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp phú nông tiêu diệt chế độ bóc lột phong kiến từng bước và có phân biệt, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến".
Quyết định của Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất của Đảng đã gây đà phấn khởi rất lớn khắp hậu phương và tiền tuyến.
Cùng với cuộc tiến công lớn của quân và dân ta trên mặt trận quân sự, nhân dân ta còn đẩy mạnh cuộc tiến công địch trên mặt trận ngoại giao, mở đầu là nội dung các câu trả lời của Hồ Chí Minh với nhà báo Thuỵ Điển Etpretxen (Expressen), ngày 26-11-1953 về tình hình chiến tranh ở Việt Nam và lập trường của Chính phủ Việt Nam về giải quyết hoà bình ở Việt Nam. Những câu trả lời của Hồ Chí Minh đã có tiếng vang lớn ở trong nước và thế giới.
Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 đã kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại ngày 7-5-1954, đập tan hoàn toàn kế hoạch quân sự của Nava. Hôm sau, ngày 8-5-1954, Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương đã khai mạc trong tình hình mới: thế và lực của cách mạng nước ta lên cao chưa từng thấy. Cuộc đấu tranh của ta trên mặt trận ngoại giao đã diễn ra gay gắt. Trong bối cảnh đó, Hội nghị lần thứ sáu (mở rộng) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp từ ngày 15 đến ngày 17-7-1954. Căn cứ vào sự phân tích tình hình thế giới và trong nước, Nghị quyết của Hội nghị nhận định: "Sau 9 năm kháng chiến, những thắng lợi lớn của ta về mặt quân sự và cải cách ruộng đất, cũng như về mặt tài chính, kinh tế, văn hoá, giáo dục, xây dựng mặt trận, xây dựng Đảng, v.v. đã đánh dấu một bước tiến rất lớn của quân và dân ta. Những thắng lợi ấy đã làm cho lực lượng so sánh giữa ta và địch biến chuyển có lợi cho ta nhưng chưa phải chuyển biến căn bản có tính chất chiến lược... Chúng ta cũng cần nhận rõ do chiến tranh trường kỳ, nhân dân ta phải đóng góp sức người, sức của cũng nặng. Nếu chiến tranh kéo dài thì có thể sinh ra những hiện tượng mệt mỏi và khó khăn của chúng ta có thể nhiều hơn".
"Từ đông xuân vừa qua, thừa dịp thực dân Pháp thua nặng, đế quốc Mỹ can thiệp trắng trợn vào Đông Dương, kiên quyết thi hành kế hoạch kéo dài và mở rộng chiến tranh Đông Dương đặng biến Đông Dương thành thuộc địa và căn cứ quân sự của chúng. Nếu đế quốc Mỹ trực tiếp tham gia chiến tranh Đông Dương thì lực lượng so sánh giữa ta và địch sẽ có thể thay đổi không lợi cho ta.
Đế quốc Mỹ là một trở lực chính ngăn cản việc lập lại hoà bình ở Đông Dương... Vì vậy, đế quốc Mỹ... hiện đang trở thành kẻ thù chính trực tiếp của nhân dân Đông Dương".
Hội nghị quyết định: "Phương châm, sách lược đấu tranh của ta trong giai đoạn mới là chĩa mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc Mỹ và hiếu chiến Pháp, dựa trên cơ sở những thắng lợi đã đạt được mà phấn đấu để thực hiện hoà bình ở Đông Dương, phá tan âm mưu của đế quốc Mỹ kéo dài và mở rộng chiến tranh Đông Dương, củng cố hoà bình và thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và thực hiện dân chủ trong toàn quốc. Khẩu hiệu của ta là: Hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ".
Nghị quyết của Hội nghị cũng nêu các nhiệm vụ và công tác trước mắt của toàn Đảng, toàn dân:
"1. Tranh thủ và củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc.
2. Tăng cường lực lượng quân sự, xây dựng một quân đội nhân dân hùng mạnh, thích hợp với yêu cầu của tình thế mới.
3. Tiếp tục thực hiện người cày có ruộng; ra sức phục hồi sản xuất, chuẩn bị điều kiện kiến thiết nước nhà".
Hội nghị Giơnevơ về vấn đề lập lại hoà bình ở Đông Dương đã được ký kết. Miền Bắc nước ta đã được hoàn toàn giải phóng. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 5 đến ngày 7 tháng 9-1954 ra quyết nghị về Tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng. Nghị quyết nêu rõ cuộc đấu tranh của nhân dân ta bước vào một thời kỳ mới, có những đặc điểm mới. Song "Nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta chưa phải đã hoàn thành... Cuộc đấu tranh đó còn đang tiếp tục nhưng phương thức đấu tranh cần phải thay đổi. Chúng ta cần hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc trong hình thức đấu tranh mới. Vì vậy, trong một thời gian nhất định nhiệm vụ chung của Đảng ta là đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện Hiệp định đình chiến để củng cố hoà bình, ra sức hoàn thành cải cách ruộng đất, phục hồi và nâng cao sản xuất, tăng cường xây dựng quân đội nhân dân để củng cố miền Bắc, giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam nhằm củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ trong toàn quốc. ở miền Nam: "nhiệm vụ của Đảng... là lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh thực hiện Hiệp định đình chiến, củng cố hoà bình, thực hiện tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc lập. Đồng thời... đấu tranh chống những hành động khủng bố, đàn áp, phá cơ sở của ta". Phương thức đấu tranh của ta lúc này là khéo công tác, khéo che giấu lực lượng và tranh thủ hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp, kết hợp công tác hợp pháp và không hợp pháp. Nghị quyết của Bộ Chính trị có tác dụng chỉ đạo kịp thời cuộc đấu tranh của nhân dân ta trên cả hai miền đất nước.
Ngày 10-10-1954, Hà Nội sạch bóng quân thù. Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ về lại Thủ đô để chỉ đạo cách mạng cả nước.
Từ ngày 3 đến 12 tháng 3-1955, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ bẩy (mở rộng), nhận định: kẻ thù cụ thể trước mắt của toàn dân ta là đế quốc Mỹ, phái thực dân Pháp phản Hiệp định và bọn Ngô Đình Diệm, đế quốc Mỹ là kẻ thù đầu sỏ và nguy hiểm nhất. Mục tiêu đấu tranh trước mắt là hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Đây là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, phức tạp.
Tháng 8-1955, Hội nghị lần thứ tám (mở rộng) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng lại khẳng định đế quốc Mỹ là kẻ thù đầu sỏ nguy hiểm nhất của nhân dân ta. Nhiệm vụ trước mắt của Đảng là "ra sức tập hợp lực lượng của toàn dân thành một Mặt trận thống nhất rộng rãi, có một cương lĩnh chung thích hợp để đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập dân chủ và bằng phương pháp hoà bình". Hội nghị nhấn mạnh: "muốn thống nhất nước nhà, điều cốt yếu là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam". "Củng cố miền Bắc tức là bồi dưỡng lực lượng cơ bản của ta, xây dựng chỗ dựa vững chắc cho nhân dân cả nước giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh củng cố hoà bình thực hiện thống nhất". Hội nghị đã bầu bổ sung Lê Đức Thọ, Lê Văn Lương, Lê Thanh Nghị, Phạm Hùng, Nguyễn Duy Trinh, Hoàng Văn Hoan vào Bộ Chính trị.
Cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta trên cả hai miền đất nước diễn ra trong bối cảnh thế giới đang có những chuyển biến mới phức tạp. Tháng 6-1956, Hội nghị lần thứ chín của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã khẳng định đường lối của cách mạng nước ta là củng cố miền Bắc, chiếu cố miền Nam, đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hoà bình, song cần phải luôn luôn nâng cao cảnh giác, ra sức củng cố quốc phòng, sẵn sàng đối phó với mọi tình thế.
Tháng 6-1956, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra nghị quyết về Tình hình và nhiệm vụ cách mạng miền Nam, xác định chế độ Mỹ - Diệm ở miền Nam là một chế độ độc tài, phát xít của bọn tư sản mại bản và phong kiến thân Mỹ phản động nhất. Nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là chống đế quốc Mỹ và chống phong kiến. Tính chất của cách mạng là dân tộc và dân chủ.
Tháng 8-1956, Hội nghị lần thứ mười của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp bàn về đấu tranh thống nhất nước nhà và cải cách ruộng đất. Hội nghị nhận định cuộc cải cách ruộng đất của ta đã giành được thắng lợi to lớn và căn bản. Song chúng ta đã phạm phải sai lầm nghiêm trọng và kéo dài. Vì thế, Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ phải kiên quyết sửa sai trên cơ sở bảo đảm lợi ích của nông dân lao động và đoàn kết nội bộ nông dân, phát huy kết quả và thắng lợi đã đạt được.
Vào mùa thu năm 1956, bản Đề cương cách mạng miền Nam đã được đưa ra thảo luận trong hội nghị các bí thư tỉnh uỷ miền Tây Nam Bộ, sau đó ở miền Đông Nam Bộ và đến tháng 12-1956, được thảo luận ở Hội nghị xứ uỷ họp tại PhnômPênh. Đề cương nêu ra xu thế phát triển tất yếu của cách mạng miền Nam "muốn chống Mỹ - Diệm, ngoài con đường cách mạng, nhân dân miền Nam không có con đường nào khác". Đề cương cách mạng miền Nam đã góp phần tích cực chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho phong trào khởi nghĩa từng phần ở miền Nam và góp phần chuẩn bị cơ sở lý luận và chính trị cho Nghị quyết 15 của Trung ương về cách mạng ở miền Nam.
Tháng 12-1956, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ mười một bàn về vấn đề kinh tế, tài chính.
Tháng 3-1957, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ mười hai bàn về kế hoạch nhà nước năm 1957 và vấn đề xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng. Hội nghị khẳng định tích cực xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của toàn Đảng, toàn dân tộc. Quân đội có nhiệm vụ bảo vệ công cuộc củng cố và xây dựng miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ và an ninh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, chủ yếu là đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Phương châm xây dựng quân đội là tích cực xây dựng một quân đội nhân dân hùng mạnh tiến dần từng bước lên chính quy hoá và hiện đại hoá, có lực lượng thường trực và lực lượng hậu bị mạnh.
Tháng 12-1957, Hội nghị lần thứ mười ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết nghị cải tiến chế độ tiền lương một cách thích đáng để giảm bớt khó khăn, cải thiện một phần đời sống của cán bộ, công nhân, viên chức nhà nước, khuyến khích mọi người hăng hái sản xuất và công tác.
Năm 1958, miền Bắc đi vào thực hiện kế hoạch ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển văn hoá. Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ mười bốn (11-1958) chủ trương "đẩy mạnh cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm trước mắt là đẩy mạnh cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế tư bản tư doanh, đồng thời ra sức phát triển thành phần kinh tế quốc doanh là lực lượng lãnh đạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân". Nghị quyết nêu lên ba nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch kinh tế và văn hoá (1958 - 1960), trong đó trọng tâm là cải tạo và phát triển nông nghiệp. Trong khi thực hiện kế hoạch ba năm, phải kết hợp tăng cường củng cố quốc phòng, xây dựng hậu phương vững chắc, quan tâm đầy đủ nhiệm vụ xây dựng quân đội, liên hệ chặt chẽ nhiệm vụ kinh tế với nhiệm vụ quốc phòng, dựa vào lực lượng trong nước là chính, đồng thời tăng cường hợp tác tương trợ giữa nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa.
Trong khi miền Bắc đang bắt tay thực hiện kế hoạch ba năm (1958 - 1960) thì cách mạng ở miền Nam cũng diễn ra quyết liệt; những đốm lửa vũ trang khởi nghĩa đã nhóm lên ở nhiều địa phương. Giữa lúc đó, tháng 1-1959, Hội nghị lần thứ mười lăm (mở rộng) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp ở Hà Nội, do Hồ Chí Minh chủ trì. Tham dự Hội nghị còn có đại biểu của Xứ uỷ Nam Bộ, Liên khu uỷ Khu V và Ban Cán sự Đảng các tỉnh cực Nam Trung Bộ. Căn cứ vào sự phân tích tình hình xã hội trên cả hai miền đất nước và những mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam cần giải quyết, Hội nghị nhận định cách mạng Việt Nam lúc này phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược đó khác nhau về tính chất, nhưng quan hệ hữu cơ với nhau, song song tiến hành, ảnh hưởng sâu sắc lẫn nhau, trợ lực mạnh mẽ cho nhau, nhằm phương hướng chung là giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị phân tích âm mưu của Mỹ là xâm chiếm cả nước ta để làm thuộc địa và căn cứ quân sự nhằm phá hoại phong trào độc lập dân tộc và hoà bình dân chủ ở Đông Dương. Miền Nam Việt Nam đã trở thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Xã hội miền Nam có hai mâu thuẫn cơ bản:
1- Mâu thuẫn giữa nhân dân ta ở miền Nam và bọn đế quốc xâm lược, chủ yếu là đế quốc Mỹ.
2- Mâu thuẫn giữa nhân dân miền Nam, trước hết là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến.
Mâu thuẫn chủ yếu ở miền Nam lúc này là mâu thuẫn giữa dân tộc ta, nhân dân ta ở miền Nam với bọn đế quốc Mỹ xâm lược cùng tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, đại diện cho bọn địa chủ phong kiến và tư sản mại bản thân Mỹ phản động nhất. Lực lượng tham gia cuộc cách mạng ở miền Nam bao gồm: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản, giai cấp tư sản dân tộc và những nhân sĩ yêu nước. Động lực của cách mạng ở miền Nam là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản; lấy khối liên minh công nông làm cơ sở, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Miền Bắc xã hội chủ nghĩa là cơ sở vững chắc của phong trào cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Cách mạng miền Nam có:
"1- Nhiệm vụ cơ bản là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
2- Nhiệm vụ trước mắt là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến tranh, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống của nhân dân, giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông - Nam á và thế giới".
Phương hướng phát triển cách mạng ở miền Nam nói chụng là không thể đi ra ngoài quy luật chung của cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa từ trước cho đến nay, cho nên con đường phát triển cơ bản của cách mạng ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ ách thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân. Muốn đạt được mục tiêu đó, cần phải có một quá trình đấu tranh lâu dài và gian khổ, phải tích cực xây dựng, củng cố và phát triển lực lượng cách mạng thì mới có thể có điều kiện nắm lấy thời cơ thuận lợi và giành lấy thắng lợi cuối cùng.
Trong quá trình đấu tranh, cần sử dụng kết hợp những hình thức đấu tranh hợp pháp, nửa hợp pháp và không hợp pháp, phối hợp chặt chẽ phong trào ở đô thị với phong trào ở nông thôn và vùng căn cứ. Đế quốc Mỹ là tên đế quốc hiếu chiến nhất, cho nên trong những điều kiện nào đó, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ. Trong khi lãnh đạo, Đảng phải thấy trước khả năng ấy để chuẩn bị chu đáo và chủ động đối phó trong mọi tình thế.
Hội nghị lần thứ mười lăm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng là một cột mốc mới quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong sự phát triển về đường lối cách mạng ở miền Nam, đáp ứng nhu cầu bức thiết của quần chúng cách mạng, góp phần tạo nên bước chuyển biến nhảy vọt của cách mạng ở miền Nam năm 1959 -1960.
ở miền Bắc, Đảng đẩy mạnh cuộc vận động cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh theo Nghị quyết của Hội nghị lần thứ mười sáu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (4-1959).
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, Trung ương Đảng chủ trương kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ cải tạo quan hệ sản xuất với nhiệm vụ cải tiến kỹ thuật, kết hợp hợp tác hoá với thuỷ lợi hoá và phát triển sản xuất. Phong trào hợp tác hoá cần phát triển từ thấp đến cao. Phương châm, nguyên tắc xây dựng hợp tác xã là "tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ", tuyệt đối không được cưỡng bức, mệnh lệnh.
Về cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, Trung ương chủ trương phải tích cực và khẩn trương đẩy mạnh xoá bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ cách bóc lột tư bản chủ nghĩa và giai cấp tư sản. Điểm mấu chốt về kinh tế trong chính sách cải tạo hoà bình là dùng chính sách chuộc lại tư liệu sản xuất của tư bản, đưa xí nghiệp tư bản tư nhân vào hình thức công tư hợp doanh; qua đó mà chuyển chế độ chiếm hữu tư bản tư nhân căn bản trở thành chế độ sở hữu của Nhà nước.
Thắng lợi của phong trào "đồng khởi" của nhân dân miền Nam năm 1959 - 1960 và kế hoạch ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa bước đầu phát triển kinh tế, văn hoá ở miền Bắc đã khẳng định ý chí và nguyện vọng của nhân dân ta là kiên quyết giải phóng miền Nam, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, thực hiện thống nhất đất nước.
Trong bối cảnh lịch sử đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ mười bảy (12-1959) để tổng kết cuộc cách mạng ruộng đất, thảo luận về dự thảo Hiến pháp sửa đổi.
Tháng 7-1960, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ mười tám để chuẩn bị nội dung và kế hoạch tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng.