Góp ý Văn kiện Đại hội XIV của Đảng: Chuyển hóa tri thức thành sức mạnh kinh tế

TS. Phạm Huy Hiệu nhấn mạnh việc chuyển hóa tri thức thành sức mạnh kinh tế, tạo nền tảng phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng đang được lấy ý kiến rộng rãi và thu hút sự quan tâm lớn của giới khoa học, chuyên gia và toàn xã hội. Với tinh thần đổi mới và tầm nhìn chiến lược, Văn kiện được xem là "kim chỉ nam" cho giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, TS. Phạm Huy Hiệu, Phó Giám đốc Văn phòng Nghiên cứu và Đổi mới sáng tạo, Trường Đại học VinUniversity (Giải thưởng "Quả Cầu Vàng khoa học công nghệ" năm 2023, "Gương mặt trẻ Việt Nam tiêu biểu" về Khoa học công nghệ năm 2024) đã nhấn mạnh tinh thần đổi mới trong Dự thảo; đồng thời đề xuất các đột phá về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và phát triển nhân tài cho giai đoạn phát triển mới của đất nước.

TS. Phạm Huy Hiệu - Ảnh: Mạnh Quân

TS. Phạm Huy Hiệu - Ảnh: Mạnh Quân

Tầm nhìn thời đại

- Ông đánh giá như thế nào về tinh thần đổi mới, cách tiếp cận và tầm nhìn chiến lược được thể hiện trong Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng?

TS. Phạm Huy Hiệu: Dự thảo Văn kiện đã thể hiện rõ tinh thần đổi mới mạnh mẽ cả về nội dung và cách tiếp cận. Nội dung được chắt lọc, cô đọng, thể hiện tầm lý luận sâu sắc và tổng kết thực tiễn sinh động, có tính khái quát cao. Dự thảo bao quát và làm nổi bật những vấn đề quan trọng, cốt lõi của đất nước và của Đảng, đồng thời truyền tải thông điệp rõ ràng, ngắn gọn trong từng định hướng chiến lược.

Văn kiện được biên soạn công phu, ngắn gọn, mang tầm tư duy lý luận sâu sắc, phản ánh quá trình tổng kết thực tiễn phong phú và năng lực khái quát cao của Đảng ta sau nhiệm kỳ XIII. Điểm nổi bật là Dự thảo không chỉ xác định đúng những vấn đề cốt lõi của đất nước mà còn truyền tải thông điệp phát triển rõ ràng, thống nhất và nhất quán trong từng định hướng chiến lược.

Các chiến lược, mục tiêu trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường, giáo dục, quốc phòng, đối ngoại… được xác định rõ ràng, thể hiện tầm nhìn dài hạn, khát vọng xây dựng Việt Nam hùng cường, thịnh vượng và bền vững. Điểm đáng chú ý là Dự thảo đặt khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở vị trí trung tâm, coi đó là động lực quyết định cho mô hình tăng trưởng mới.

Bên cạnh đó, Dự thảo cũng thể hiện sự hài hòa giữa kế thừa và đổi mới, giữa lý luận và hành động, giữa mục tiêu chiến lược và tính khả thi trong triển khai. Đây là bước tiến quan trọng, cho thấy quyết tâm của Đảng trong việc chuyển hóa tầm nhìn thành chính sách cụ thể, tạo nền tảng vững chắc để đất nước phát triển nhanh, bền vững và chủ động hội nhập sâu rộng trong thời đại mới. Đây là văn kiện mang hơi thở của thời đại và phản ánh rõ ý chí kiến tạo của một Đảng lãnh đạo vì sự phát triển của dân tộc Việt Nam trong giai đoạn mới.

- Theo ông, trong quá trình phát triển đất nước, đâu là những vấn đề cần được nhận diện rõ hơn trong Dự thảo để đảm bảo tính thực chất và khả thi của các định hướng lớn, nhất là về chất lượng nguồn nhân lực, hệ thống giáo dục, khoa học công nghệ và cơ chế thu hút, sử dụng nhân tài?

TS. Phạm Huy Hiệu: Để các định hướng chiến lược trong Dự thảo thực sự đi vào cuộc sống, cần nhìn thẳng vào những vấn đề còn hạn chế và xác định rõ đâu là điểm nghẽn trong các lĩnh vực trọng yếu.

Trước hết là giáo dục và phát triển nguồn nhân lực, vẫn tồn tại khoảng cách đáng kể giữa đào tạo và nhu cầu của thị trường lao động. Chương trình giáo dục chưa theo kịp xu hướng công nghệ và đổi mới nghề nghiệp, khiến kỹ năng số, tư duy sáng tạo và năng lực thích ứng của người học chưa được chú trọng đúng mức. Bên cạnh đó, bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục chất lượng cao vẫn là vấn đề cần được quan tâm, đặc biệt giữa các vùng miền và nhóm đối tượng khác nhau.

Đối với giáo dục đại học, Việt Nam vẫn thiếu những trường đại học nghiên cứu có năng lực dẫn dắt và đóng vai trò hạt nhân trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia. Các cơ chế tự chủ đại học, hợp tác công - tư hay chuyển giao tri thức vẫn còn hạn chế, chưa hình thành được mối liên kết bền vững giữa nhà trường - viện nghiên cứu - doanh nghiệp.

Trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, đội ngũ nghiên cứu còn mỏng, phân tán và thiếu chuyên gia đầu ngành. Hạ tầng nghiên cứu hiện đại, cơ sở dữ liệu khoa học và nguồn lực tài chính cho R&D còn yếu. Việt Nam cũng cần có những chính sách cụ thể hơn về thuế, tín dụng và quỹ hỗ trợ để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp công nghệ, từ đó hình thành hệ sinh thái phát triển năng động, thực chất và có sức lan tỏa.

Bứt phá bằng tri thức, phát triển bằng đổi mới sáng tạo

- Trong bối cảnh thế giới chuyển dịch mạnh mẽ với sự trỗi dậy của kinh tế tri thức và công nghệ số, theo ông, quan điểm và mục tiêu phát triển của nước ta trong giai đoạn tới cần được xác định như thế nào để tận dụng tối đa sức mạnh của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và nhân tài, qua đó định hình mô hình tăng trưởng mới cho Việt Nam?

TS. Phạm Huy Hiệu: Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trở thành động lực cốt lõi và cũng là động lực mạnh mẽ nhất định hình quỹ đạo phát triển của mỗi quốc gia. Giờ đây, sức mạnh của một nền kinh tế không còn được đo lường bằng các nguồn lực truyền thống như tài nguyên thiên nhiên hay lực lượng lao động chi phí thấp mà bằng khả năng sản sinh, áp dụng, làm chủ tri thức mới, kỹ năng ứng dụng công nghệ và sức sáng tạo của đội ngũ nhân tài. Các mô hình kinh doanh và sản xuất mới hình thành nhanh chóng, con người vận hành tối đa bằng AI và tự động hoá.

Sức mạnh của một nền kinh tế hiện đại không còn được đo bằng tài nguyên thiên nhiên hay lao động giá rẻ mà bằng năng lực sáng tạo tri thức, khả năng làm chủ công nghệ và chất lượng nhân lực. Quốc gia nào nắm bắt nhanh xu hướng công nghệ mới, đầu tư đúng hướng cho giáo dục và đổi mới sáng tạo, quốc gia đó sẽ vươn lên dẫn đầu.

Về chính sách nhân tài, cần mở rộng tầm nhìn từ khẩu hiệu "thu hút, trọng dụng nhân tài" sang định hướng toàn diện hơn là "đào tạo, thu hút, giữ chân và phát huy tối đa tiềm năng nhân tài". Không chỉ dừng ở việc mời gọi mà phải kiến tạo môi trường sống, học tập, nghiên cứu và cống hiến thuận lợi để nhân tài có thể phát huy hết khả năng.

Đối với giáo dục quốc dân phải trở thành “nền móng của đổi mới”, hướng tới hình thành con người Việt Nam sáng tạo, tư duy phản biện, có năng lực số, kỹ năng mềm và khả năng thích ứng cao trong môi trường công nghệ liên tục thay đổi. Cần có chiến lược phát triển đội ngũ giáo viên, nhà nghiên cứu, học sinh và sinh viên có khả năng làm chủ công nghệ mới, AI, Big Data, tự động hóa.

Mục tiêu giáo dục cần gắn chặt với nhu cầu của xã hội và thị trường lao động thay vì chỉ dừng ở khẩu hiệu "nâng cao chất lượng". Đồng thời, phải có hệ thống đánh giá dựa trên năng lực thực tế của người học, bảo đảm đầu ra phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế số.

Song song với đó, mục tiêu phát triển quốc gia cần gắn liền với môi trường sống bền vững, mở rộng sang quản lý ô nhiễm không khí đô thị, ô nhiễm nhựa, bảo vệ đất nông nghiệp, đa dạng sinh học và thích ứng biến đổi khí hậu.

Để định hình mô hình tăng trưởng mới, Việt Nam phải đặt tri thức - công nghệ - nhân tài vào vị trí trung tâm, coi đó là nguồn vốn chiến lược để bứt phá, phát triển nhanh, bền vững và chủ động trong thời đại toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0.

- Ông cho rằng đâu là những đột phá chiến lược cần ưu tiên trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và chuyển đổi số để Việt Nam có thể tạo ra bước nhảy vọt về năng suất, năng lực cạnh tranh và chất lượng cuộc sống, đồng thời bảo đảm tiến bộ công nghệ được lan tỏa rộng rãi, góp phần phát triển bao trùm và bền vững?

TS. Phạm Huy Hiệu: Chiến lược hiện tại có tầm nhìn rộng, lý tưởng và toàn diện, thể hiện nỗ lực lớn trong việc định hướng phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Để nâng cao khả năng thực thi, có thể xem xét một số điểm bổ sung: Trước hết, trong số các lĩnh vực ưu tiên như trí tuệ nhân tạo (AI), bán dẫn, năng lượng mới, không gian và công nghệ lượng tử, cần sắp xếp thứ tự theo lợi thế và năng lực thực tiễn, từ đó tập trung nguồn lực cho các mũi nhọn có thể mang lại tác động nhanh và lan tỏa mạnh đến nền kinh tế.

Bên cạnh việc lựa chọn lĩnh vực ưu tiên, phải chú trọng thu hẹp khoảng cách năng lực công nghệ giữa các vùng, doanh nghiệp và khu vực kinh tế. Cần xây dựng các cơ chế tài chính, quỹ hỗ trợ đổi mới sáng tạo, đặc biệt dành cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, khu vực tư nhân và các địa phương còn khó khăn, để bảo đảm mọi thành phần kinh tế đều có cơ hội tham gia vào quá trình chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ mới.

Một khía cạnh quan trọng khác là tính bao trùm của tiến bộ công nghệ. Mọi chính sách về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo cần được thiết kế để "không ai bị bỏ lại phía sau", từ người dân nông thôn, học sinh vùng sâu đến doanh nghiệp nhỏ. Bên cạnh đó, cần đánh giá tác động kinh tế xã hội khi triển khai các công nghệ chiến lược, bảo đảm tiến bộ khoa học thực sự phục vụ con người, thúc đẩy công bằng, phát triển bền vững và lan tỏa giá trị tri thức trong toàn xã hội.

Xin cảm ơn ông!

Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV đã được công bố để lấy ý kiến nhân dân. Việc lấy ý kiến được thực hiện từ ngày 15/10 đến 15/11 qua hội nghị, hội thảo, báo cáo của các cơ quan, góp ý trực tuyến qua ứng dụng VNeID hoặc thư gửi về cơ quan Trung ương. Mỗi ý kiến góp ý là sự thể hiện trách nhiệm, trí tuệ và tâm huyết của người dân trong việc xây dựng đường lối phát triển đất nước đến giữa thế kỷ 21. Các ý kiến sẽ được tổng hợp, chuyển đến Tổ Biên tập Văn kiện Đại hội 14 để nghiên cứu, tiếp thu và hoàn thiện trước khi trình Đại hội.

Nguyên Thảo (thực hiện)
Bình luận