CôngThương - Tinh hoa phố cổ
So với những nghề cổ hiện đang tồn tại thì nghề đồng, nghề bạc và chạm tam khí thịnh hành hơn cả bởi ở phố Hàng Bạc, Hàng Đồng vẫn còn nhiều gia đình cha truyền con nối gắn bó với nghề. Trong nghề khảm tam khí ở Hà Nội không thể không nhắc tới nghệ nhân Nguyễn Ngọc Trọng vốn được mệnh danh “Đệ nhất khảm tam khí” Hà Thành. Khảm tam khí là nghệ thuật phối kết 3 loại kim loại quý trên đồ đồng.
Từ những vẽ mẫu phong cảnh, nhân vật, họa tiết trên sản phẩm đồng đúc, người nghệ nhân sẽ khéo léo đục sâu các mẫu đó thành hình khối, đường nét rồi gắn vàng, bạc hoặc kim loại quý khác vào để hoàn thiện một tác phẩm. Từ chiếc bát, đĩa, ấm trà dùng hàng ngày đến những đồ lưu niệm như tranh, trống đồng, đồ trang sức và đồ thờ… tất cả đều được ấp ủ ý tưởng rất lâu.
Khi cảm xúc làm nghề trong người nghệ nhân thăng hoa thì những nét khắc đã hiện lên, làm “mềm” đi thứ nguyên liệu đồng thô cứng, làm sống lại cái thần của nghề cổ mà máy móc và công nghệ hiện đại ngày nay không thể chế tác được. Sự khéo léo, tài hoa của đôi bàn tay vàng đã làm nên những tác phẩm nghệ thuật tinh xảo, độc đáo và mang phong cách riêng biệt của người nghệ nhân đã có hơn 60 năm tuổi nghề. Các sản phẩm của ông Trọng làm ra thường được lãnh đạo Đảng, Nhà nước đặt để làm quà biếu ngoại giao.
Phố Hàng Quạt bây giờ nổi tiếng vì là nơi bán đồ thờ cúng, nhưng vẫn có vài số nhà đang kiếm sống với một nghề truyền thống: nghề khắc dấu gỗ. Cách đó không xa, ở số nhà 2B phố Tô Tịch cũng có một cửa hàng “chuyên ngành” này. Không ai biết nghề khắc dấu gỗ có từ bao giờ, nhưng theo những người nghiên cứu về Hà Nội và cả những người đang làm nghề này, khắc dấu gỗ đã có tuổi đời cả trăm năm.
Không giống như những nghề cũ còn sót lại ở Hà Nội là làm hàng tiêu dùng, khắc dấu gỗ đã làm nên một thú chơi tao nhã của người Hà Nội và du khách thập phương; một nghề chơi đầy công phu, độc đáo và hết sức riêng biệt. Trước đây, những nhà nho học thường đặt khắc dấu gỗ tên mình hoặc tên trường để đóng vào sách, vở và thường có hình tròn hoặc hình chữ nhật.
Bây giờ, dấu gỗ được sử dụng đa dạng hơn và không chỉ thu hút khách trong nước mà còn được du khách nước ngoài rất ưa chuộng. Từ loại dấu nhỏ chỉ như ngón tay đến chiếc dấu to bằng cả nửa quyển vở, nội dung khắc trên dấu cũng phong phú hơn. Bên cạnh dấu mang tên người, tên trường còn là dấu tên phố, dấu 12 con giáp, dấu dành cho tủ sách, chữ ký, dấu theo phong cách thư pháp rồi dấu khắc nón lá, thiếu nữ Việt Nam trong trang phục áo dài, tháp rùa, Khuê Văn Các và cả những mẫu tranh Đông Hồ nổi tiếng được thu nhỏ lại.
Mỗi mẫu dấu gỗ từ vài chục ngàn đến trên dưới vài trăm ngàn đồng tùy theo độ khó của nét khắc, một mức giá rất hợp lý cho những người yêu nghề cũ của Hà Nội. Gỗ để làm khuôn dấu được làm từ loại gỗ mực hay còn gọi là gỗ lồng mực, hừng mực, có đặc tính mềm, mịn thớ, giúp cho người thợ có thể dễ dàng tỉ mẩn khắc những đường nét thật thanh, thật nhỏ mà không sợ bị nứt, gãy.
Loại gỗ này cũng khá hút mực, cho nét khắc khi in ra gọn gàng, sắc nét. Dấu gỗ thể hiện một “đặc sản” mang giá trị tinh thần mà nhiều du khách đến Hà Nội lựa chọn tìm mua làm quà. Nghệ nhân khắc dấu Phạm Ngọc Toàn ở số 6 Hàng Quạt cho biết: nhiều người nước ngoài đã trở thành khách “ruột” của cửa hàng, đặc biệt là những người Nhật. Nghề khắc dấu gỗ và những món quà từ dấu gỗ đã được đưa vào “cẩm nang” hướng dẫn du lịch ở Nhật Bản và Hồng Kông nên du khách biết đến nghề truyền thống này ngày một nhiều hơn.
Lặng thầm nét xưa
Trên con đường tơ lụa sầm uất Hàng Ngang, Hàng Đào ngay trung tâm Hà Nội, có một cửa hàng nhỏ nép mình khiêm tốn với bảng hiệu: “Truyền thần”. Truyền thần được xem là nghề gắn bó khá mật thiết với cư dân Hà Thành xưa kia, thời của “nghệ thuật buồng tối” vẫn chưa thịnh hành thì truyền thần chính là thông điệp truyền tải hình ảnh hữu hiệu nhất.
Nếu như khởi đầu chỉ là “vẽ ảnh” người quy tiên, thì càng về sau truyền thần càng được nhiều người ưa chuộng bởi sự mộc mạc của hai màu đen-trắng đã làm nên vẻ khác biệt cho mỗi bức ảnh. Ông Nguyễn Bảo Nguyên (77 tuổi), trú tại số nhà 47, phố Hàng Ngang (ảnh), một trong những người hiếm hoi còn gắn bó với nghề truyền thần bộc bạch: “Truyền thần không phải là nghề “chép ảnh” mà người vẽ phải truyền được cái hồn và thần thái của người trong ảnh hay người mẫu vào từng nét vẽ để bức ảnh trở nên sống động và “thật” hơn, đúng như tên gọi của nghề”.
Để bức tranh cuốn hút được người xem với hồn vía và thần thái riêng thì người vẽ tranh phải rất cầu kỳ về cách lấy màu. Bút vẽ tranh không phải là loại bút lông, bút dạ mà được làm bằng tre, trên đầu gắn một ngòi bút bằng chiếc tăm xỉa răng; mực cũng không phải là mực công nghiệp mà được người vẽ “chế tạo” theo bí quyết riêng: đốt lốp cao su bằng dầu hỏa và lấy phễu hứng lấy muội than, đây là loại mực vừa mịn, vừa ăn giấy.
Không có tuổi đời mấy trăm năm nhưng “sang sợi” lại là một nghề mà nhiều người ấn tượng hơn cả khi nhắc tới những nghề xưa cũ của Hà Nội. Xuất hiện từ thời Pháp thuộc, rộ lên nhiều trong giai đoạn bao cấp rồi mất dần đi khi manh quần tấm áo đủ đầy hơn nhưng những người gắn bó với nghề vẫn không thể từ bỏ “nghiệp”.
Ngoài một địa chỉ trên phố Lê Ngọc Hân, một chỗ khác ở Hàng Bài thì địa chỉ sang sợi nổi tiếng đất Hà Thành phải kể đến cửa hàng nằm trên ngõ Thanh Miến. Tại đây có 2 cửa hàng nhỏ của con dâu cụ Tạ Diệp Huệ, một cụ bà làm nghề sang sợi đã hơn hai phần ba thế kỷ. Có khi đông khách cụ Huệ vẫn cần mẫn ngồi làm cùng con cháu cho đỡ nhớ nghề. Tỉ mỉ, kỳ công và độc đáo là những từ dành để diễn tả với nghề này.
Mọi vết rách dù to hay nhỏ cũng được người thợ chăm chút tỉ mỉ, tùy theo độ khó của vết rách mà thợ dùng chỉ hay dùng chính sợi vải của chiếc quần, áo đó để sang sợi, làm vết rách “chìm” đi trong màu vải khiến không ai nhận ra “lỗi”. Từ bộ comp lê giá hàng chục triệu đồng đến chiếc áo len vài trăm ngàn đồng sơ ý bị rách hay những chiếc áo khoác đắt tiền bị côn trùng gặm nhấm, dưới bàn tay khéo léo vén từng sợi vải đã “cứu” lại giá trị sử dụng của một bộ trang phục hoặc đôi khi là món đồ kỷ niệm mà người dùng không muốn bỏ đi.
Những người làm nghề không chỉ cầu kỳ chọn đúng màu chỉ, sợi vải mà còn làm đúng cả họa tiết ca rô hay hoa văn, đường kẻ trên mỗi chiếc quần, áo để người mặc hay người nhìn không thấy sự khác biệt lộ ra sau khi “vá” lại. Giá cho mỗi lần sang sợi từ 10.000 đến trên dưới 100 ngàn đồng tùy theo độ khó, một mức giá không quá cao nhưng cũng đủ làm nên nguồn thu nhập để những người thợ của một nghề độc đáo này tồn tại giữ nghề.
Nếu như Hồ Gươm hay Khuê Văn Các làm nên nét đẹp hiện hữu của Thủ đô nghìn năm tuổi thì những nghề xưa, phố cũ lại chính là cái hồn và chất riêng của một Hà Nội sâu lắng và hào hoa, sang trọng và bình dị, cổ kính và hiện đại, song hành cùng với thời gian.